Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013
TRỞ LẠI BÌNH PHƯỚC
Lần thứ hai mình trở lại Bình Phước. Lần đầu vào tháng 12/2011, dự trại sáng tác của Ủy ban toàn quốc. Lần này, Hội VHNT Bình Phước mời dự trại sáng tác của tỉnh từ 21 đến 25 tháng 10. Trại lần này có 25 trại viên, trong đó khách mời gồm ba người, Phan Đức Nam (Bình Dương); Nguyễn Mạnh Cường (TP HCM); Phùng Phương Quý (Tây Ninh). Cách tổ chức của Hội VHNT Bình Phước khá hay. Hội bố trí xe đưa mọi người lên nhà khách huyện Lộc Ninh, từ đây trại viên được phát tiền ăn, tiền xăng xe rồi thành lập từng nhóm tự đến các điểm đã đăng kí. Hôm nay nhóm của mình 5 người đã đến đồn biên phòng Tà Vát. Ở đây may mắn được gặp hai đồng hương người Phú Thọ. Ngày mai sẽ đi thực tế ở Nông trường cao su.
Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2013
DÔ TÁ DÔ TÀ- CUỐI TUẦN ĐÁNH CÁ
DÔ TÁ DÔ TÀ
CUỐI TUẦN ĐÁNH CÁ
HĂM HĂM HỞ HỞ
RẢI LƯỚI KHẮP HỒ
HÒ DÔ HÒ DÔ
ANH EM CÙNG KÉO
CUỐI TUẦN ĐÁNH CÁ
HĂM HĂM HỞ HỞ
RẢI LƯỚI KHẮP HỒ
HÒ DÔ HÒ DÔ
ANH EM CÙNG KÉO
AI NGỜ XUI XẺO
ĐƯỢC MẤY CON RÔ
NÊN BÀ CHỦ NHÀ
LÀM THÊM MÓN GẤC
MÓN NÀY NHẬU TRƯỚC
LÀ CÁ LÓC TRUI
RƯỢU THUỐC ĐÂU RỒI
ĐEM RA ĐÃI KHÁCH
TOÀN LÀ RAU SẠCH
CHẲNG KỊP RỬA QUA
THẾ MÀ NGHE QUA
ÙN ÙN KHÁCH ĐẾN
BÊN CẦU ĐÀN VỊT
VỪA MỚI NHÚ LÔNG (CÁNH)
BÊN NGOÀI KHU VƯỜN
MÀO GÀ ĐỎ MẶT
Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013
CON ĐÃ TỪNG LÀ LÍNH CỦA NGƯỜI
CON ĐÃ TỪNG LÀ LÍNH CỦA NGƯỜI
Tám năm con từng là lính của Người
Ra Bắc vào Nam, biên cương, hải đảo
Màu sông núi thắm xanh sắc áo
Bước cha anh nối bước Người xưa
Người là Tướng, là Anh, là Cha
Trái tim lớn của triệu người lính trẻ
Máu dân tộc đỏ bao thế hệ
Giữ Việt Nam dân chủ cộng hòa
Con từng là chú lính binh nhì
Gác cho Người mỗi lần lên Tảm Đảo
Nhớ một lần Người dừng xe bước xuống
Sửa quân hàm, tư thế của chúng con
“Chúng ta là quân đội nhân dân
Phải hùng dũng, phải đẹp trong tư thế”
Lời dặn đó đến nay con vẫn nhớ
Mỗi lúc tìm bóng dáng một quân nhân.
Người nhẹ nhàng vĩnh biệt trần gian
Về thanh thản cùng triệu đồng đội cũ
ở nơi xa nén tâm nhang cháy đỏ
gứi tới Người, vị tướng của Nhân dân.
12h
11/10/2013
TÔI TỰ HÀO VÌ TỪNG LÀ LÍNH CỦA TƯỚNG GIÁP |
VĨNH BIỆT ĐẠI TƯỚNG |
Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013
NGÀY CHỦ NHẬT BUỒN
Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2013
CẢNH TRÀ VIẾT VỀ THƠ BÀNG SỸ NGUYÊN
Thấy trong tập bản thảo MẤY QUẢ KHẾ CHUA của nhà thơ Cảnh Trà có bài
cảm nhận về thơ Bàng Sĩ Nguyên. Mình thích quá mang về đây. Người viết
cảm nhận như Cảnh Trà thật khéo và tinh, mong ở Tây Ninh, có được vài
cây bút như anh.
xin trân trọng giới thiệu:
xin trân trọng giới thiệu:
Bàng sỹ Nguyên
Vợ chồng đi chợ xuân
Núi rừng xa mờ
xanh với xanh
Đường non như
lưng rồng uốn khúc
Vợ ngồi lưng
ngựa vợ đi trước
Chồng nắm đuôi
ngựa chân theo nhanh
Vợ chồng xuống
núi đi chợ xuân
Sương sớm còn
che như lấp lối
Vó ngựa cuốn
nhanh chồng ríu chân
Vợ thương dìm
cương dừng ngựa lại
Một dãy rừng
mai mờ ướt sương
Đường xuân đưa
vợ chồng xuống nùi
Váy vợ phồng
căng đầy gió đồng
Đuổi theo vó
ngựa mỏi chân chồng
Vào chợ đổi
hàng mua vải muối
Mắt đưa nhìn
quanh thấy rượu nồng
Chồng ghé vào
hàng say mấy chén
Vợ bán mua xong
dắt ngựa đến
Thấy chồng dím
mắt cười nắng xuân
Ngả nón tu lờ
đưa chồng gối
Xòe quạt bên
chồng vợ phe phẩy
Chen chân trong
chợ người đi lại
Rực rỡ đường
thêu, vòng bạc rung
Gió mát nằm lâu
chưa hết say
Nâng chồng lên
ngựa hàng chất đầy
Vợ đi thong thả
theo sau ngựa
Về núi tay
cương chồng lỏng tay …
Trong sự thẩm
định cái đẹp, cái hay của phong cảnh, hoa trái, văn chương … mỗi người đều có
một sở thích riêng, không ai giống ai tuyệt đối. Có người chỉ thấy đẹp ở những
cây đã được tạo dáng, uốn vặn hình các
loại chim, loài thú. Lại có phái chỉ thích dáng cây ra sao cứ để vậy. Có những
chàng trai ưa phụ nữ uốn các kiểu tóc kỳ dị lông nhím, đuôi công … Có chàng
thích tóc con gái dài tự nhiên, bông xỏa…
Tôi thuộc loại
thứ hai, vì thế từ lâu đã rất nặng lòng với bài thơ Vợ chồng đi chợ xuân của nhà thơ Bàng Sĩ Nguyên, bởi lời lẽ chất phác, giản dị và mộc mạc đúng tính cách
của cảnh và người vùng cao Tây Bắc.
Nhà thơ Bàng Sĩ
Nguyên, họ và tên là Bàng Khởi Phụng, sinh năm 1925 ở Bình Lục, Hà Nam trong
một gia đình trí thức. Ông đã từng đi bộ đội thời kháng chiến chống Pháp làm
báo trong quân đội. Năm 1954 hòa bình lập lại ông học tiếp đại học, ra trường
làm ở báo Văn Nghệ, nhà xuất bản Văn học, đã in 7 tập thơ, 1 trường ca, 5 tập
truyện và 1 vở kịch.
Tây Bắc núi
nhiều, trập trùng, giăng mắc. Dưới chân núi là chổ sinh sống của người Thái,
lưng chừng núi là người Dao, cao, cheo leo, hiểm trở nhất là người Mèo (Mông).
Chợ vùng cao thường họp ở đồng bằng. Bởi vậy để trao đổi hàng hóa, giao lưu
tình cảm … bà con các dân tộc thường đến chợ.
Đây là bài thơ
tả cảnh vợ chồng người Mèo xuống núi đi chợ xuân
Một dãy rừng mai mờ ướt sương
Đường xuân đưa vợ chồng xuống núi
Tả cảnh chỗ ở
của người Mèo, tác giả chỉ dùng hai câu
Núi rừng xa mờ xanh với xanh
Đường non như lưng rồng uốn khúc
Chưa ai thấy,
chưa ai biết rồng là con vật như thế nào
nhưng nhìn con đường từ rên cao đổ xuống như lưng rồng uốn khúc cũng cảm thấy
lạ lẫm, hoang sơ và thú vị.
Tiếp đến là những
câu thơ nói lên sự bình đẳng giới giữa Nam và Nữ, giữa người vợ và người
chồng, tự nhiên, hồn hậu lạ thường. Ngồi trên lưng ngựa để đi chợ xuân không
phải là người con trai, không phải là người chồng mà là Vợ ngồi lưng ngựa, vợ đi trước. Còn người chồng thì Chồng nắm đuôi ngưa, chân theo nhanh
Sương ở đâu cũng
vậy, xốp nhẹ, nhưng ở vùng cao sương dày đặc đến nổi
Sương sớm còn che như lấp lối
Vó ngựa cuốn nhanh chồng ríu chân
Vợ thương dìm cương dừng ngựa lại
Xuống núi, đi
chợ xuân là một nét văn hóa bản địa của người Mèo. Ở đây ta chỉ mới thấy hưởng
cảnh xuân lúc này của người vợ
Váy vợ phồng căng đầy gió đồng
Đưổi theo vó ngựa mỏi chân chồng
Người chồng
hưởng xuân theo cách khác
Mắt đưa nhìn quanh thấy rượu nồng
Chồng ghé vào hàng say mấy chén
Ở trên, ta được
chứng kiến cảnh người vợ ngồi trên lưng ngựa, đi trước, người chồng nắm đuôi
ngựa, chạy lẽo đẽo theo sau, không trách móc, không tranh giành. Ở phần sau,
khi người vợ mua bán xong xuôi
Vợ bán mua xong dắt ngựa đến
Thấy chồng dím mắt cười nắng xuân
Ai cười với nắng
xuân đây? Hình như cả hai! Chồng say, vừa ngủ, vừa như cười, vợ thấy trong lòng
vui quá vì chồng say rất đẹp, thấy người đi chợ đông vui, đường thêu rực rỡ,
vàng bạc rung kêu, kê nón để chồng gối, xòe quạt mát để chồng ngủ. Những câu
thơ hay như cho ta cùng uống chén rượu xuân vậy. Đúng là Câu thơ
hay, bài thơ hay làm cho người đọc không còn thấy câu chữ, chỉ còn cảm thấy
tình người.
Và bài thơ kết
cũng thật đậm đà bản chất vùng cao
Gió mát nằm lâu chưa hết say
Nâng chồng lên ngựa hàng chất đầy
Vợ đi thong thả theo sau ngựa
Về núi tay cương chồng lỏng tay …
Tay cầm cương mà say quá không nắm được, ngựa thì đi nước
kiệu còn vợ thì bước thong thả. Tất cả hiện lên vẻ tự tin, khoan thai và yên ổn
đến kỳ lạ.
Nhà thơ Họa sĩ BSN tại nhà riêng |
và ở Tây Ninh |
Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013
TẬP TRUYỆN NGẮN _ MÙA TRĂNG SUÔNG
TẬP TRUYỆN NGẮN
MÙA TRĂNG SUÔNG
(NXB Văn hóa dân tộc năm 2005)
1. Mùa trăng
suông
Giơ tay nhìn đồng hồ, đã hơn bốn giờ. Toi mất buổi
chiều. Hậu thoáng lo, nhưng hơi men làm anh can đảm. Mặc kệ! Lâu lâu xả hơi,
chết ai? Ha ha, thế nào là ‘đắm đò giặt mẹt’’. Cái quán của Thu chó xập xệ thế
mà có mấy em xinh tươi ghê. Mất đứt bốn trăm ngàn, nhưng mà… muỗi! Mình sắp
thành tỉ phú rồi. Bất giác Hậu vọt ga, bộ mặt tròn, nâu bóng gật gù theo tiếng
hát rửng mỡ “Hò dô ta nào. Kéo pháo ta vượt qua đèo…Hò dô ta nào…Kéo pháo ta
vượt qua núi…í…”. Chậc! Con bé beo béo mặc áo thắt lưng hát hò chẳng ra gì, mà
nó kéo pháo mới ác chứ!!!
Trại đồi kia rồi. Những đồi tre Bát độ, đồi luồng vun
tròn như chiếc nón xanh, sóng sánh ánh nắng quái. Hai mái lán lợp lá cọ lấp ló
như cánh buồm nâu bạc giữa biển xanh lá. Về đến nhà rồi! Hò dô ta nào! Hậu
ngoác miệng reo. Xe lao ràn rạt trên đường đá sỏi, vùn vụt. Trong vườn tre mới
xòe tán ven đường vào trại, một chiếc sào nhỏ đầu buộc miếng vải đỏ thò ra phất
phất. Hậu phát hiện tín hiệu báo nguy hiểm nhưng không dừng lại được. “Bố! Bố!
Cẩn thận!”. Tiếng thằng cu Út trong vườn vọng ra, chiếc sào vải đỏ lại khua
loạn xạ. Hậu hoảng hốt đạp phanh, nhao về đằng trước. Đang định quay xe lại hỏi
con xem chuyện gì, nhưng muộn rồi.
Mụ Hào vợ anh bất thần xuất hiện như rơi từ trên trời
xuống, đứng chắn ngang đầu xe, tay lăm lăm chiếc đòn gánh. Mụ hỏi lạnh tanh:
“Tiền bán măng đâu?”. Chưa bao giờ mụ có hành động thế này. Không chờ trả lời,
mụ thọc tay vào túi áo chồng lôi ra tập tiền sột soạt đếm. “Sao còn có bây
nhiêu?”. “Chẳng bấy nhiêu thì bao nhiêu!’’. Hậu nói khẽ. “Hai tạ măng. Giá bốn
nghìn bảy một cân. Tổng cộng là chín trăm bốn chục nghìn?”. “Thằng Thao nợ tôi
bốn trăm nghìn!”. Cạnh đòn gánh mỏng nhịp nhịp vào cánh tay Hậu, anh nhảy xuống
vòng ra sau xe máy. Mụ vợ cười gằn: “Ông tưởng tôi không biết hôm nay thằng
Thao dẫn ông vào đâu hử? Lắm tiền, ngứa nghề rồi đâm mặt vào quán ô kê ô cóc
với mấy con đĩ của để ngoài váy, phải không? Đừng có cãi! Bà ở nhà nhưng bà
biết hết! Bác Sáo kể hết với bà rồi!”. “Chỉ láo thôi nào! Lão Sáo ở nhà biết
gì? Để tôi kéo lão ra…”. Chiếc đòn gánh lại cản ngang yết hầu. “Không phải đôi
co. Bác Sáo không bao giờ nói dối. Sáng nay bác ấy vay tiền tôi ra thị trấn mua
cho con Mơ chiếc xe đạp. Bác ấy nhìn thấy tận ổ con chuồn chuồn rồi”. Mụ Hào
hậm hực rít lên, nhứ nhứ đòn gánh. “Mua xe máy để đi làm ăn, chứ không phải đi
đĩ bợm nhé! Hôm nay bà đập tan cái xe này!”. Chiếc đòn gánh vung lên, đập bộp
bộp xuống yên xe bụi mù. Hậu hốt hoảng lao vào nằm đè lên xe, che chở, dính
liền hai nhát đòn gánh. Nhát đầu đánh phẹt vào bên mông núng nính. Nhát sau đập
cộp vào xương sống đau nhói. Hậu rũ xuống, rên rỉ: “Con sư tử cái kia! Thế là
chết tao rồi!”. Thằng cu Út chạy từ trong vườn măng ra khóc ré: “Bố ơi! Bố
ơi!”. Nó cố giằng chiếc đòn gánh trên tay mẹ mếu máo “Sao mẹ ác thế? Đánh chết
bố rồi?”. Mặt mụ Hào đỏ tía: “Tao đánh cho tiệt nọc giống trai lơ kia!”. Sau
thấy chồng nằm gục trên xe, không nhúc nhích thì mặt mụ tái mét chạy quanh
chiếc xe: “Ối giời ơi!…Có ai xem hộ nhà em thế nào?”.
Lão Sáo khẽ đặt chiếc khăn ướt lên cái trán nhăn của
Hậu. “Chú thấy trong người thế nào? Cô ấy nóng tính, đồng bóng. Lẽ ra chú nhịn
đi một tí”. Hậu he hé mắt, thấy mặt lão Sáo cũng nhăn nhó lo lắng thật sự, nỗi bực dọc trong lòng
nguội bớt. “Thế ông học cái thói mách lẻo từ bao giờ?”. Lão Sáo khổ sở. “Tôi có
biết gì đâu! Ra thị trấn mua cho cái Mơ chiếc xe đạp. Nhìn thấy chú định gọi
lại làm bát tiết canh, nhưng lại thấy chú Thao kéo chú vào quán ka..kê gì đấy.
Lại thôi. Về nhà cũng vui miệng nói lại như thế. Không ngờ cô ấy nhảy đong
đong. Tôi cũng chẳng biết làm thế nào”. Lão gãi mớ tóc hoa râm, khuôn mặt sạm
nắng tối sầm. “Mà chú cũng nên chỉn chu làm ăn. Sa đà với thằng Thao nhiều quá
không tốt. Cả làng chê nó mới nảy nòi cái đại lý ngoài thị trấn đã ăn chơi trác
táng. Với chú, nó bất quá chỉ là đứa nhận mua măng đem giao lại cho mấy nhà
hàng. Chú thì nổi tiếng là chủ trang trại. Đừng cá mè một lứa. Công việc đang
bề bộn ra kia. Luồng Thanh Hóa cần bón phân. Tre Bát Độ dịp này chiết cành được
rồi. Chú đi cả ngày như thế…’’. Hậu giật chiếc khăn ném xuống chiếu. “Thế ông
có biết ông là người làm thuê cho tôi không?’’. Miệng lão Sáo ớ ra, mãi không
ngậm lại được. Thằng này giỏi! Nó lại lên mặt ông chủ đây. Nó cũng phải nhớ mấy
năm trước còn là thằng kế toán dưới quyền lão. Trại vườn này lão cũng bỏ ra bao
nhiêu công sức gầy dựng giúp nó đây. Ngày trước lão còn là chủ nhiệm hợp tác
xã, chẳng phải lão đã nhấc nó từ chân đội phó sản xuất lên kế toán HTX ư? Lão
nghiêm mặt. “Chú đừng quá lời, chú còn nhớ ngày xưa tôi ăn ở với chú thế nào
chứ?”. Hậu làu bàu. “Tôi không phải là hạng ăn cháo đá bát. Nhưng ông cũng phải
hiểu ra một tí. Ngày trước ông là cấp trên tôi, nhưng bây giờ hợp tác xã không
còn nữa, ông làm giúp tôi, nhận lương của tôi, thì tôi là chủ. Đúng không?
Nhiều lúc ông quen thói cũ cứ lược mặt tôi mãi. Tôi nể không muốn nói…”. Lão
Sáo đắng nghét trong miệng. Nó nói cũng phải, nhưng không lẽ vì thời buổi này
mà những người từng chung lưng đấu cật với nhau như nó với lão lại lật sấp bàn
tay sao?
Hậu khôn ranh từ ngày còn làm đội phó kiêm kế toán đội
sản xuất. Sổ sách của Hậu bao giờ cũng rành mạch, sát với phương án của Hợp tác
xã. Ấy vậy mới tài. Mỗi vụ nó vẫn bỏ ngoài sổ sách được đôi tạ thóc, bao giờ
cũng chia cho chủ nhiệm một nửa. Lão Hậu từng khen. Nó là đứa biết điều. Nhiều
khi ngồi uống rượu với nhau, lão rỉ tai hỏi Hậu làm cách nào mà giỏi thế? Nó
chỉ cười. “Sổ sách em cân đối nghiêm chỉnh cho Ban quản trị rồi. Cái gì thừa,
tự nó thừa thôi”. Đến bây giờ lão Sáo vẫn không tài nào hiểu nổi cách làm của
Hậu. Rồi lão ngấm ngầm vận động đưa Hậu lên làm kế toán Hợp tác xã. Rồi Hậu làm
cách nào đó với cánh đội trưởng sản xuất, để hàng vụ vẫn có lộc cho chủ nhiệm
mấy trăm đồng từ các khoản thu sản phẩm. Hồi ấy lão Sáo tin và phục Hậu. Sổ
sách do kế toán trưởng trình lên lão đều nhờ Hậu kiểm tra lại. Cô kế toán
trưởng chẳng mấy lần toát mồ hôi vì những khoản mục lập lờ trong phương án ăn
chia bị lão chỉ ra. Cô thầm phục chủ nhiệm giỏi đột xuất, chỉ Hậu biết thừa
rằng, mỗi lần nhìn vào phương án lão thấy con số như đàn kiến bò dọc ngang,
xuôi ngược là hoa cả mắt. Lão đã tính đến việc đưa Hậu đi học thêm 43 tài
khoản, để thay cô kế toán trưởng, nhưng không may Hợp tác xã tan rã. Sắp giải
thể. Hợp tác xã như cái chợ vỡ. Có gì bán được Ban chủ nhiệm tranh thủ bán
ngay. Nhoáng một cái, bán vèo đàn trâu bò mấy trăm con. Nhoáng một cái, hàng
loạt nhà kho sân gạch biến mất như bị phù phép. Rồi thì đại hội xã viên, chia
lãi cổ phần. Có được bao nhiêu đâu. Những nhà góp trâu, bò, cày bừa, xe kéo hồi
mới lập Hợp tác xã, gần hết đời nhận lại mấy chục ngàn đồng tiền lãi, đủ mua
con gà làm bữa liên hoan. Lão Sáo đã già, được nghỉ vì không xếp chỗ nào bên Ủy
ban xã được. Hết một thời vàng son. Riêng Hậu từ chối chân thường trực Hội nông
dân xã, về nhà bỏ tiền ra mua mấy héc-ta đất đồi loe hoe bạch đàn. Những người
tinh nhanh cười mũi. “ Thằng rồ! Mua mấy đồi bạch đàn chó ỉa ấy làm gì không
biết?”. Vợ Hậu gàn, hắn bảo tội gì không mua. Mấy héc ta đồi, giá rẻ còn hơn
con trâu nái hoa.
Không ai hiểu được ý định của Hậu. Anh cứ bỏ mặc mấy
đồi bạch đàn toen hoẻn mọc, quay sang nhận thầu bán điện cho xã. Nông thôn mới
có điện. Không hiểu gì về điện, bố ai dám nhận. Nhì nhằng nó giật chết tươi.
Hậu xin đi học kỹ thuật điện dân dụng nửa tháng, về tập trung mấy cậu thanh
niên khỏe mạnh, nhanh nhẹn cùng làm. Thầu bán điện chắc cũng kiếm được. Thấy vợ
chồng Hậu xây lại cái nhà, mua thêm cặp bò. Được năm sáu năm gì đấy, Hậu nghỉ,
giao việc lại cho cậu tổ phó. Đúng năm ấy rộ lên phong trào làm trang trại. Hậu
chặt bỏ hết bạch đàn, đào hố ngổn ngang. Không biết anh chở đâu về toàn những
cành tre nhỏ bằng ngón tay, hạ trồng hàng loạt. Mãi sau lão Sáo mới biết đó là
cây luồng Thanh Hóa. Ba năm sau luồng mọc thành bụi, xum xuê cao vút, Hậu quay
sang trồng măng Bát Độ. Lúc làm trại vườn, người đầu tiên Hậu tìm đến là lão
Sáo. “Bác ở nhà cũng ít việc, sang giúp em làm cái trại vườn. Mỗi tháng em gửi
bác hai trăm nghìn, cơm nước thì ăn với nhà em, có gì dùng nấy. Được không ạ?”.
Lúc đầu lão Sáo tự ái, từ chối. Chẳng gì lão cũng từng là cấp trên của Hậu. Ai
đời cấp trên đi làm thuê cho cấp dưới? Bà Sáo chì chiết. “Sĩ diện vừa thôi. Hỏi
ông làm gì trong nhà này mỗi tháng ra hai trăm nghìn? Chẳng qua biết tí kỹ
thuật người ta mới vời đến. Cũng là đi bảo ban giúp nhà nó, chứ ngữ ông, ai
thèm thuê”. Bà đùng đùng chạy sang nhà Hậu: “Tôi đồng ý cho ông ấy sang giúp cô
chú. Cứ ở hẳn bên này cũng được. chẳng gì anh em cũng công tác chung bao nhiêu
năm rồi. Chú đừng bảo ai khác nhé!”. Mụ Hào mừng ra mặt: “Chẳng phải bác Sáo,
chúng em thèm vào nhờ”.
Đúng là việc nhờ lão Sáo do chủ ý của vợ Hậu, chứ anh
chẳng ưa gì người thủ trưởng cũ. Ngoài vốn liếng kĩ thuật trồng cây, lão chả
nên trò trống gì, lại tham lam vặt vãnh. Là chủ nhiệm HTX hồi bao cấp là ngồi
trên đống của, mà chẳng biết ăn cho đáng miếng, toàn nhặt nhạnh xương xẩu từ
đám bậu sậu. Lúc bàn việc thuê người, vợ chồng Hậu cũng tranh cãi chán ra. Mụ
Hậu khăng khăng nhờ lão Sáo. Nào là bác ấy cẩn thận, chịu khó. Nào là bác ấy đã
qua trường lớp đàng hoàng, tinh thông kĩ thuật. Nhưng Hậu ngại nên giữ kẽ. Sự
đổi ngôi thứ, dù ở thời nào cũng làm người ta e dè, mà Hậu với lão Sáo thì quá
rõ gan ruột nhau. Mất tiền thuê người mà còn phải ý tứ đối xử như với khách thì
còn gì bực bằng. Nhưng mụ vợ đã quyết, Hậu đành buông xuôi. Có một bí mật chỉ
mình mụ Hào biết. Đó là chuyện lão Sáo đi lại với cô Hồng chị gái mụ. Họ dan
díu với nhau từ bao giờ? Từ ngày chồng cô Hồng còn lái xe đường dài, hay sau
khi anh ta bị tai nạn lật xe chết trên miền núi? Không ai rõ. Cô Hồng một con,
người to béo phốp pháp, hai má lúc nào cũng hồng rực. Đàn ông ai nhìn thấy cũng
thèm. Thời bao cấp mà hai mẹ con sống nhởn nhơ không thiếu thứ gì từ những thu
nhập của anh chồng lái xe. Đến khi họa rơi xuống đầu, thì “ buôn không hay, cày
không biết”, xơ xác như chó thay lông. Mụ Hào thương chị, cũng chỉ dấm dúi đỡ
đần yến thóc hay túi sắn lát chớm mọt. Có lần mụ ngạc nhiên thấy trong nhà chị
gái hàng bồ thóc đầy. Dạo ấy đâu trộm hay nhổ sắn nhà, mụ Hào dậy sớm đi rình.
Qua cổng nhà chị gái, mụ bắt gặp lão Sáo vội vàng đi từ trong nhà ra. Chờ lão
đi khuất, mụ vào đập cửa ầm ầm. Thấy chị gái đầu tóc xổ tung, khuy áo nút cài
nút mở, thì hiểu ra. Mụ mát mẻ. “Thế nào mà bà đổ đốn ra sớm thế?”. Cô Hồng
bình tĩnh búi lại tóc, trả lời tỉnh bơ: “Dì có góa chồng đâu mà biết. Không có
ông ấy, mẹ con tôi chết đói lâu rồi”. Mụ Hào giận lắm, hậm hực quay ra. Đi một
quãng nghĩ lại thấy nguôi nguôi. Bà ấy nói đúng. Chị em gái, ai lo phận nấy, có
thương nhau cũng chỉ thương môi, thương miệng. Thôi, có mất đi đằng nào. Cứ cho
lão dê già ấy vần vò, gỡ gạc. “Hòn bấc ném đi, hòn chì ném lại”. Chỉ sợ bà ấy
mạ khô háo nước, hăng hớn lên có chửa thì đẹp mặt. Từ đấy mụ kín đáo theo dõi
hai người, thấy họ cũng giữ kẽ, không để điều tiếng gì. Hai mẹ con cô Hồng đủ
ăn, đủ mặc, rồi lão Sáo còn xin được phiếu phân phối, mua cho con bé chiếc xe
đạp nữ. Thấy cháu đi học qua ngõ, mặt hớn hở, líp xe kêu tanh tách, chuông bấm
kính coong, mụ Hào thầm ơn lão Sáo không bạc tình với chị mình. Thế nên sau
này, mụ mới tính toán thuê lão Sáo làm trại vườn. tháng hai trăm nghìn tiền
công, có tắt mắt ngọn măng, cành củi, một nửa cũng chuyển về nhà chị gái mình.
Ngày trước, những yến, những tạ thóc Hậu cung phụng cho lão đã chửng nuôi sống
mẹ con chị Hồng đó sao.
Hai nhát đòn gánh của vợ làm Hậu nằm bệt mất mấy ngày.
Mụ Hào bên trong lo thắt ruột mà bên ngoài vẫn làm mặt lạnh. Mụ tự tay mổ gà
nấu cháo ngải, đi tìm mua thuốc cho chồng. Lúc ăn thì mụ hầu, nhưng khi nặn
thuốc thì giao cho thằng út. Từ lúc cai sữa đến năm mười tuổi, thằng út toàn
rúc nách bố vì sợ mẹ. Nằm sấp cho con nặn thuốc, lòng Hậu như có lửa. Không
biết mình có sai lầm khi trồng đồi luồng? Luồng đang ấm bụi, cây nào cây nấy
cao vút, to lầm lẫm. thế mà giá thu mua lại giảm từ mười nghìn đồng xuống bảy
nghìn một cây loại A. Măng Bát độ mấy vụ đầu không đủ mà bán, nay cũng xuống
giá thê thảm. Hậu đã nghĩ đến việc chuyển sang trồng thử giống hồng không hạt.
Mấy trăm gôc hồng, cũng phải bỏ ra ba, bốn chục triệu. Loại hồng này mới phát
hiện có ở làng Cả mấy trăm năm nay, còn đẹp mã và ngon hơn hồng Hạc Trì, giá
lại cao, dễ bán. Cây hồng giống bây giờ, năm chục nghìn một gốc con con, đến
hai trăm nghìn một gốc dò dò. Lúc này nên trồng ngay còn kịp tung ra thị
trường. Hậu lại nấp nỏm ý định bỏ trồng lúa ở dộc Mèo. Đất ở đấy chua loét, lúa
chẳng khi nào nổi một tạ một sào. Nếu đem trồng cỏ ngọt, thừa sức nuôi đàn bò
ba chục con. Giá bò nuôi cũng lên chóng mặt. Sẵn tre bương đấy, cũng nên làm
cái trại bò.
Dù vẫn đầy bụng tức, Hậu vẫn phải gọi lão Sáo đến để
bàn việc theo dự đinh mới. Vung vẩy chiếc mũ cọ rộng vành, lão Sáo sốt sắng:
“Chú đỡ hẳn chưa? Khổ! Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Chấp con vợ làm gì”. Lão
bưng chén trà nòng, sì sụp. “Đợt măng này cắt được rồi. Chú tính thế nào?”. “Cứ
để đấy đã. Tôi định bàn với bác chuyện khác”. Lão Sáo chợt lúng túng. “Tôi cũng
định tối nay chú bàn tí việc…việc trại măng ấy”. Hậu ngồi hẳn dậy, lão này cũng
nhanh nhạy ghê, bắt được ý nghĩ của mình. “Bác tính thế nào? Nói thử xem có
giống tôi nghĩ không”. Lão Sáo mừng, thở phào. “Công việc ở trại nhiều quá,
suốt từ sáng đến trưa, từ chiều đến tối, mà chú trả tôi có hai trăm…”. Hậu tiu
nghỉu. Thì ra lão đòi tăng lương. Lão Sáo nhìn thái độ của Hậu, biết ngay ý
nghĩ của nó không giống mình. Nhìn lơ đãng ra sân, lão tự nói trong lòng. Chẳng
thế ư! Tưởng lão không biết mỗi tháng vợ chồng nhà nó thu bao nhiêu tiền từ bán
cây, bán măng, bán cây giống? Gần bốn triệu bạc chứ ít à. Hự! Mà nó thí cho
mình hai trăm bọ. Bên kia giường, Hậu cũng thở hắt ra. “Bác làm với nhà em thì
biết đấy. Tiền thu vào có được bao nhiêu đâu. Vừa trả lãi ngân hàng, vừa phân
tro, sâu bệnh, thuê thêm người lúc mùa vụ. Bác tuy lĩnh hai trăm nghìn, nhưng
công việc tháng nhiều, tháng ít, lương vẫn đóng cọc như vậy. Nhưng bác đã nói
thế…mỗi tháng em trả thêm năm chục nữa”. Bộ mặt choắt lại, con mắt nheo nheo
nhìn người đối diện, y như ngày trước lão nheo mắt xem Hậu có trung thực không,
số thóc cống nộp lấn ấy có sòng phẳng chưa. Hâu bỗng lạnh người khi gặp lại ánh
mắt cũ. Nhưng rồi trong người nóng bừng lên khi nghĩ mình giờ đã là ông chủ.
Cái miệng nhếch giễu cợt của lão Sáo mở ra. “Tôi nói thật nhé. Chú nên nghĩ
lại. Chú có trả tôi ba trăm một tháng cũng chưa xứng đâu. Nhưng nghĩ tình anh
em gắn bó với nhau từ bấy đến giờ”. Hậu nhăn mặt nằm xuống, sống lưng lại đau
nhói. Lão bắt đầu làm cao đây. “Bác cứ đi làm, để tôi bàn với nhà tôi xem thế
nào”. Mụ Hào buông chậu cám lợn, nhảy cẫng lên: “Cái gì! Lão ấy lại dám so bì
với chủ ư? Thật không biết điều. Đã thế cho nghỉ, thuê người khác. Để tôi gọi
chị Hồng sang giúp, vừa được tiếng, vừa đỡ tốn”. Hậu càu nhàu: “Tôi xin bà! Chị
gái bà quen ăn trắng mặc trơn, sang đây làm cảnh nhà tôi à. Sắp tới trồng thêm
đồi hồng không hạt, cái trại bò mấy chục con, ngoài tôi với lão Sáo ai lo được
đây? Kể cả bà nhá. Có làm được không? Ái giời ui! Đau quá! Người đâu mà ác như
chó”. Mụ Hào mặt sưng sỉa: “Đấy! Muốn làm thế nào thì làm. Nhưng bà nói cho
hay, lần sau còn tí tởn đĩ bợm, bà đập gãy chân, rồi bà nuôi báo cô cũng được”.
Đêm trăng suông. Li ti những hạt sương lấp lánh bờ cỏ
hai ven đường, như những giọt nước mắt. Tiếng dế ri rỉ than thở.
Hậu nhìn sang trại đồi, xanh thẫm vạt tre lấp lóa ánh
trăng. Tập tễnh bước về phía trại, Hậu thầm nhủ hãy nén lòng tự ái mà điều đình
với lão Sáo. Công việc bề bộn, không có lão không xong. Ba trăm nghìn, chưa
bằng số tiền hôm mình đi hát và “kéo pháo” ngoài thị trấn. Mà sao mái lán cọ
đằng kia vẫn tối thui, chưa có đèn nhỉ? Hay lão Sáo ốm bỏ không ra canh trại
nữa? Hậu lo lắng dừng trước cửa lán, giật mình vì có tiếng phụ nữ. “Khiếp! Cứ
bảo già…”. Tiếng lão Sáo lúng búng như ngậm hột thị. “Già á…còn lâu…”. Loạt
soạt, hổn hển. Hậu ngây người, mặt nóng ran. Anh đứng chờ nhịp điệu hóa thân
bên trong dừng hẳn. Tiếng lão Sáo phều phào: “Sọt măng hôm qua bán hết chưa?”.
“Hết veo! Họ chả tranh nhau mua. Em bán có bốn nghìn một cân”. “Sao bán rẻ thế!
Cẩn thận không thằng Hậu biết là chết”. Tiếng phụ nữ cười hi hí. “Còn lâu mới
biết. Thôi trả áo đây”. Hậu lạnh toát người. Sao tiếng cười nghe giống tiếng mụ
vợ thế nhỉ? Nỗi nghi ngờ lóe lên như tia chớp.
Quên cả cái chân đau, Hậu đạp tung cửa. Ánh đèn pin
quét ngang tấm thân trắng ngồn ngộn đang cuốn lấy tấm thân còm cõi, đen đúa.
Quên trên người không có mảnh vải, cô Hồng ngồi dậy chắp tay vái lia lịa. “Chú
Hậu! Tôi lạy chú trăm lạy, ngàn lạy. Chú tha cho tôi”.
Im lặng trùm lên khoảng không gian nhỏ hẹp. Gió thổi
ào tới, từ đồi tre. Nghe như có tiếng lách cách đội đất chui lên của những mầm
măng.
2.Chiếc máy
cày màu đỏ
.
CHIẾC
MÁY CÀY MÀU ĐỎ
Truyện ngắn: Phùng Phương Quý
Chiếc
phản gỗ lim nóng như đít chảo rang. Mồ hôi chảy từ tấm lưng trần, loang ra mặt
gỗ. Đêm tháng năm cũng chảy loảng ra. Nồng nực.
Ông Nhàn nghe tiếng gà gáy canh hai, mà vẫn chưa chợp
mắt. Chiếc quạt cọ phành phạch, mỏi rã cánh tay. Giấc ngủ đêm nay sao không
chịu đến. Không gian im ắng, trong veo, nghe rõ cả tiếng rơi vật vờ của chiếc
lá mít va vào cửa sổ. Thường mọi đêm nếu trời oi quá ông Nhàn mở toang cửa lớn,
cửa nhỏ cho thoáng. Nhà quê có mỗi hòm lúa là quý nhất thì đã để tận trong góc
buồng bà lão, ngoài sân hai con chó dé nhanh nhách sủa suốt đêm. Tha hồ ngủ.
Thế mà đêm nay cửa ngõ đều đóng kín, cả chiếc cửa sổ
bé tẹo trong buồng bà vợ cũng được che kín bằng chiếc nong mới. Không thể sơ
suất được. Nóng thế này đã ăn thua gì. Nghe đâu cuối tháng làng có điện lưới,
lúc ấy mua chiếc quạt máy nằm cho sướng đời, mua hẳn hai chiếc cho bà lão nằm
trong buồng nữa. Nhưng mà thôi, chỉ một chiếc đủ rồi. Ta sẽ kê chiếc giường một
cạnh giường bà ấy, hai giường chung nhau chiếc quạt, không thì chết tiền điện.
Bây giờ về già bà lão sinh tật không ngủ chung giường, chứ không vợ chồng nằm
chung như ngày xưa thì tiện quá. Ông Nhàn phì cười. Lo gì chả lo lại lo tiền điện.
Bây giờ mua chục chiếc quạt máy với ông là chuyện bé bằng ngón tay út. Ông đang
tính chuyện lớn hơn nhiều. Năm ngoái đi thăm ông bạn đồng ngũ dưới xuôi, thấy
nhà bạn có chiếc máy cày nhỏ nhắn, ông mê lắm. Chiếc máy có hai càng lái, đi
sau có hơi vất hơn lội theo trâu nhưng mà nhanh, len lỏi bờ góc được cả. Bây
giờ ta mà có một chiếc thì nhất làng, nhất xã. Cả đời theo đít trâu, có cơ hội
cũng phải cho mát mặt chứ. Nghe nói giá cả cũng dễ chịu, mà quân trọng hơn là
ông đang có tiền. Rất nhiều tiền. Một trăm bốn chục triệu. Bằng ba chục tấn
thóc hay bằng giá hai chục con trâu nái hoa. Địa chủ ngày xưa còn lâu mới bằng
lão bây giờ. Cũng là nhờ ơn Đảng, Chính phủ đây. Từ ngày được giao đất giao
rừng không còn phải “khoán quản”, mấy anh nông dân nhà mình mới mặc sức trổ
tài. Chỉ sợ không có sức mà làm. Thì đấy! Bảy héc ta bạch đàn nhà mình sau mấy
năm đã có cục tiền bằng đầu gối gập. Hôm nghe tin ông đánh tiếng bán rừng, một
tay cai nguyên liệu giấy tìm đến nhà. “Bố định bán bao nhiêu?”. Hồi mới trồng
rừng, thằng cả làm trên phòng Nông nghiệp huyện nói mỗi héc ta bạch đàn một chu
kỳ khai thác thu hơn hai chục triệu, ông Nhàn nhẩm tính rồi phát giá: “Nếu chú
mua tất, tôi lấy một trăm hai mươi lăm triệu. Không bớt một xu!”. Tay cai gỗ
rút ngay tập tiền trong cặp số ra. “ Con trả bố trăm hai tròn. Bố cầm một trăm
triệu trước, còn hai chục hôm nào chặt gỗ con trả nốt. Bố đếm đi! Con mua bán
thoáng nhất xứ này đấy.”
Ông Nhàn cuống cà kê nhìn tập tiền. Mua bán gì mà như
ăn cướp, không thèm mà cả co kéo gì? Hay là mình bán hớ? Đúng ra là ông nói
thách, nếu nó trả dưới một trăm hai chục triệu là ông bán ngay, ai dè…Thôi hớ
hênh gì. Thằng này làm ở Công ty Giấy, trong đầu có sỏi rồi. Nó làm ăn lớn mua
bán cũng phải khác chứ. Nhưng mà lớn bé gì mặc xác nhà anh nhá, tôi “ra rọ” cho
nhà anh năm chục nghìn. “Cám ơn bố! Vừa mới bảo không bớt một xu, giờ lại ra rọ
năm chục. Chả bõ…”. Ông Nhàn giảng giải. “ Thì cũng như nhà quê chúng tôi bán
con bò, con lợn. Ra rọ cho người mua mấy nghìn cho con của hay ăn chóng lớn”.
Sau này có người bảo ông bán hớ, chứ co lên trăm ba chục triệu nó cũng mua. Ôi
dào! Biết thế nào mà hớ với hênh. Già néo đứt dây. Mà nó đi buôn thì phải có
lời chứ, không có mà “ buôn bòi…bỏ sọt”. Mình cả đời nằm mơ cũng không có số
tiền lớn như vậy.
Trằn trọc mãi trong đám mồ hôi ướt sũng, ông Nhàn mò
dậy, lôi chiếc chìa khoá tủ lận ở lưng quần ra. Sờ sờ lỗ khoá, khe khẽ nhét
chìa vào, ông kéo cánh tủ, giật bắn người vì nó kêu ken két. Không ổn. Mai phải
xin bố Cả tí dầu luyn tra vào bản lề cho nó trơn. Cái bọc giấy xi măng ram ráp,
vuông vức như cục gạch vẫn nguyên trong tủ, nó đốt cháy bàn tay thô nhám run run của ông. Mình nhất định phải mua máy
cày. Thời Hợp tác xã có chiếc máy cày màu đỏ của Trạm cơ khí huyện về cày đất
lạc cho xã, ông Nhàn từng đứng cả buổi mê mải xem máy cày băng băng lật đất, ao
ước mình được ngồi trên ghế lái chiếc máy cày kia. Nay thì cơ hội đến rồi, phải
mua máy cày ngay, mà phải là máy cày màu đỏ. Ông vốn dĩ khoái màu đỏ, cái màu
rực lên như máu nóng, từ khi còn là anh lính Cụ Hồ.
Khó nhất là chuyện “chọn cá vừa đĩa”. Làm sao mua được
chiếc máy cày nhỏ, hợp với đồng đất trung du. Từ ngày giao đất tới hộ sản xuất,
nhà nào cũng ba bốn mảnh ruộng như áo vá, cố muốn dùng máy cày lớn cũng không
được.
Bà vợ nằm trong căn buồng kín mít, nóng quá cũng không
ngủ được nhưng sợ chồng nên không dám bỏ cái nong ra cho thoáng gió. Nghe tiếng
bật lửa xoành xoạch, bà hỏi vóng ra: “ Ông vẫn chưa ngủ à? Canh ba rồi đấy”.
Bật lửa đã bén, hắt sáng le lói qua cửa buồng. Tiếng ông thoang nhẹ; “Ngủ thế
nào được! Cứ như lửa đốt trong bụng. Hay bà dậy đi! Ra đây tôi bàn tí việc”.
Ngọn đèn dầu hắt khoảng sáng vừa chiếc phản hẹp. Bà vừa ngáp vừa nghe ông thì
thầm một thôi, một hồi về chiếc máy cày đen đỏ gì đấy. Rằng thì là phải cho
thầng Út đi học lái máy cày ngay mới được. Rằng thằng con lái máy, thằng bố đạp
xe vào các khu nhận cày cho cả xã. Giá thuê cày trâu chín mươi nghìn một sào,
cày máy nhận bảy mươi nghìn một sào thôi. Mà cày máy vừa nhanh, vừa kỹ, lại rẻ,
còn đòi gì hơn nữa? Chả nhào vào mà cầu cạnh bố con nhà ông ấy chứ. Chẳng mấy
năm mà có lãi. “Bà có nghe tôi nói không đấy?” Nghe ông chợt to tiếng, bà giật
mình tỉnh ngủ. “Ngày mai bà gọi thằng Út về, không đi đóng gạch thuê nữa. Nhắn
cả bố Cả sang tôi bảo”. Khi ông đặt lưng xuống phản thì trời đã hưng hửng,
ngoài ngõ í ới tiếng người gọi nhau đi gặt lúa sớm.
Ba Vụ dắt chiếc Babeta ra ngõ. Chiếc xe cũ nước sơn
bạc phếch và cặp ghi đông như càng bọ ngựa không hợp với bộ cánh sơvin bảnh bao
của anh. Vụ là con trai cả ông Nhàn, từ khi anh đề xuất với Phòng nông nghiệp
mang được giống ngô lai về cho địa phương làm thêm vụ đông, dân làng thay cái
tên Cả Vụ thành Ba Vụ. Ông Nhàn bảo con trai đừng phiền lòng, thế cũng là cách
lưu danh với đời. Khi Ba Vụ dựng chân chống giữa, leo lên yên đạp nhoay nhoáy
khởi động xe. Vừa vê ga định chạy đi thì chị vợ dưới ao gọi với lên. “ Bà nhắn
anh sang nhà ông bảo gì ấy”. “ Muộn rồi! Tối sang!”. Chị vợ buông rổ rau lợn,
chạy lên gắt chồng: “ Hình như ông gọi sang bàn chuyện chia tiền bán rừng đấy.
Chú Út cũng được gọi về kia kìa. Xuống cơ quan bây giờ lại tụ tập che thuốc tán
láo chứ gì mà vội”. Ba Vụ quay ngoắt xe, phóng sang nhà bố đẻ.
Ông Nhàn ngồi dựa lưng vào tủ thờ, trước mặt là bộ ấm
chén vàng sậm vết nước trà. Vừa đưa chén trà lên miệng thì nghe tiếng xe “ba
bét nhè” của Cả Vụ è è, rú lên rồi tắt ngủm. Xe với cộ, có cái dốc chó đái mà
chịu chết không lên được. Ba Vụ đẩy chiếc xe lên đến sân, lũ chó nhảy cẫng lên
mừng. Đưa chiếc quạt cọ cho con, ông Nhàn than phiền: “Mới sáng ra đã oi quá!
Anh xem thế nào, có xin kéo điện sớm cho dân làng nhờ với. Việc gì có lợi cho
dân làng thì cố mà làm. Thôi thì một kẻ xin tương cả phường cùng húp anh ạ”. Ba
Vụ chỉ vâng dạ cho xong chuyện. Chẳng phải lần đầu anh nghe cha mình giáo huấn
về tình làng nghĩa xóm. Nhìn đồng hồ, Ba Vụ sốt ruột nhưng chưa tiện hỏi. Ông
Nhàn chắc hiểu ý. “Anh chịu khó chờ tí nữa, em nó về bàn cả thể”. Ba Vụ mừng
thầm. Có lẽ cụ chia tiền bán rừng thật. Được tí nào quý ti ấy, đúng là “buồn
ngủ gặp chiếu manh”, đang định thay con xe khác mà chưa đủ tiền.
Lát sau cậu Út về, quần áo còn trắng vôi vữa. Vê điếu
thuốc nhét vào nõ, châm lửa rít roét một hơi, cậu vừa ho vừa cằn nhắn. “ Sáng
ra đang mát, cố đóng lấy vài trăm gạch thì ông lại gọi. Cứ như đốt pháo vào
đít…”. “ Thôi bỏ! Không gạch ngói gì nữa. Về mà làm ông chủ không sướng hơn
à!”. Anh chàng giơ bộ răng vàng xỉn khói thuốc ra cười mỉa. “ Nghe bố nói cứ
như …Bố mà làm ông chủ con đã chẳng phải bỏ dở lớp mười đi đóng gạch thuê”. Hôm
nay ông Nhàn tha cho lối nói xách mé của thằng Út. “ Tao bán rừng được hơn trăm
triệu. Định bàn với anh em mày tìm mua chiếc máy cày về làm dịch vụ”. Hai anh
em đều ngạc nhiên hỏi cùng một lượt: “Mua máy cày làm gì?”. “Làm ông chủ chứ
làm gì!”. Ông Nhàn bực bội. Ba Vụ nóng mặt nổ một lèo. “ Ông dở người à? Cả nhà
có sáu sào ruộng, hai con trâu nái vừa làm vừa chơi lại đòi mua máy cày. Rồi
thuê người lái, rồi hỏng hóc, dầu mỡ ông làm thế nào? Mới có mấy đồng đã đòi
máy cày máy bừa, có nhiều chác ông mua ô tô chắc?”. Lòng tự ái cố hữu của ông
nông dân bị xúc phạm. “Anh là cán bộ nông nghiệp mà nói chó không nghe được.
Các anh cứ hô hào hiện đại hoá nông thôn
để làm gì? Nếu có đủ tiến tôi mua ô tô thật chứ sợ bố con thằng nào. Thôi công
việc thế này. Anh tìm hộ tôi chiếc máy cày loại nhỏ, như dưới xuôi họ đang dùng
ấy, nhớ là phải màu đỏ. Tuần sau thàng Út về thành phố học lái máy và sửa chữa,
hết bao nhiêu tiền tôi chi. Thôi giải tán!”.
Hai đứa con đi rồi mà ông Nhàn vẫn tức anh ách trong
bụng. Bọn này láo. Lại đòi trứng khôn hơn vịt. Không gia trưởng với chúng không
được. Mình lo cho chúng nó chứ cái thân già này còn được mấy năm nữa mà ham.
Ba Vụ mang về
một tập “cát tơ rô” toàn ảnh máy cày, máy kéo. “Máy Nhật đấy ông ạ! Đa tác
dụng, cày bừa, chuyên chở, bơm nước, phát điện đủ cả. Ông chọn đi!”. Mới xem
qua ông Nhàn thích quá, rối cả mắt. Nhưng rồi cũng chọn được một chiếc màu đỏ,
hơi nhạt nhưng cũng được. “Bao nhiêu tiền?”. “Bảy lăm triệu! Phải nộp tiền
trước để Công ty xuất nhập máy họ đặt hàng với nước ngoài”. Ông Nhàn mở tủ đếm
đủ số tiền đưa cho con. “Giục họ nhanh nhanh lên bố Cả , cho kịp vụ cày chiêm
nhá”. Tuần sau cậu Út được điều đi học lái máy ngay dưới thành phố. Ông Nhàn
giao cho con trai 10 triệu. “ Tao hỏi kỹ rồi. Năm triệu tiền học phí. Còn hai
tháng ở thành phố có năm triệu ăn ở, liệu mà chi tiêu đấy”. Gần hết khoá học
của cậu Út mà Ba Vụ chưa mang máy về, ông Nhàn nhấp nhổm như ngồi trên lửa. Một
hôm cậu Út hớt hải về nhà, thông báo: “ Anh bạn con dưới thành phố muốn bán
chiếc máy Trung Quốc. Rẻ lắm. Có đủ rơ mooc, bánh lồng cày ruộng lầy thụt, đầu
chạy bơm nước, mà chỉ có năm mươi triệu thôi bố ạ”. “Thế màu gì?” “Cũng màu đỏ!
Có mua thì mang tiền xuống ngay không nó bán mất”. Ông Nhàn ngẩn người ra. Lại
có chỗ bán mấy rẻ hơn chỗ Ba Vụ cơ à?! Ta cứ phải “mục sở thị” đã. Hai bố con
dắt nhau đi xem máy. Người bạn mà thằng Út giới thiệu hơn nó mấy tuổi mà trông
già dặn, khôn ngoan lắm. “Nghe em Út nói trên nhà đang tìm mua máy cày. Chỗ
thân quen nên con bảo em nó về hỏi ông có mua không rồi mới bán ra ngoài. Máy
này vạn năng, nồi đồng cối đá khoẻ lắm ạ. Con đang cần vốn chạy hàng biên giới
nên mới bán rẻ thế. Ông cứ đi hỏi giá khắp nơi xem có chỗ nào bán giá ấy
không”. Chiếc máy gọn gàng, xinh xắn, màu đỏ tươi chứ không nhờn nhợt như chiếc
máy Ba Vụ giới thiệu. Rõ ràng chiếc máy cày bằng sắt, bằng thép ở ngay trước
mắt mình chứ không phải nhìn qua ảnh như chỗ Ba Vụ. Ông Nhàn thích mê nhưng giả
bộ nói cứng. “ Để tôi dọ giá xem thế nào, nhưng cứ nói trước thế này. Muốn bán
bao nhiêu thì anh cũng phải bớt cho tôi một triệu. Tôi trả trước bốn mươi
triệu, còn đâu khi máy về đến nhà thanh toán nốt”. Thằng kia nhăn nhó: “ Gớm!
Ông nhà quê mà chặt chẽ thế. Làm gì mà bớt của con những một triệu! Thôi chỗ
thân quen, con bớt cho ông năm trăm, còn lại phải xăng dầu, thuê xe chở máy về
tận nhà cho ông chứ gần trăm cây số, máy cày chạy bao giờ mới tới nơi”. Ông
Nhàn tỏ vẻ vùng vằng nhưng trong bụng thì hả hê. Mua bán là phải thế chứ, không
mà cả nó bảo mình nhà quê không biết gì. Tự dưng được thêm năm trăm bạc, tạ
thóc chứ bỡn à. Cứ đế thange Út ngớ ngẩn vồ lấy thì làm gì có nửa triệu đồng.
Ông dặn dò con trai ở lại, chờ hôm sau dưa máy về luôn. Phải ăn ngủ ngay cạnh
máy cày, không cẩn thận nó tráo đồ xấu lấy đồ tốt thì bỏ mẹ, ông phải về báo
ngay cho Ba Vụ hoãn lấy chiếc máy kia lại.
Nhà Ba Vụ đang
có khách. Mấy anh em cùng cơ quan đến chơi. Họ xúm quanh chiếc xe máy dựng giữa
sân, bàn tán rôm rả. Thấy bố vào, Ba Vụ khoe ngay: “ Xe con mới mua đấy ông ạ.
Đờ rim Thái xịn, ba bảy triệu chẵn”. Anh tong tả dẫn bố tới cạnh chiếc xe, đề
sịch một phát, chiếc xe nổ ngay, tiếng nổ nhẹ, xe chỉ rung khe khẽ. Ba Vụ cười
kha kha. “Không phải đạp cong đít như chiếc Ba bét nhè nữa”. Ông Nhàn gật đầu.
Được đấy! Nhưng đắt quá. Xe cộ gì giá bằng nửa chiếc máy cày. “ Tôi sang nói
chuyện với anh rằng thì là hoãn việc mua máy cày Nhật lại đã. Tôi có kế hoạch
khác”. Ba Vụ vâng dạ, lòng mừng rơn. Mình trót đem tiền của bố đi mua xe máy
trước, bây giờ ông cụ hoãn mua máy cày thì còn gì bằng. “Con sẽ báo Công ty
xuát nhập khẩu hoãn lại, nhưng tiền chắc chưa lấy ra ngay được đâu ông ạ”. “
Thôi thì lúc nào hộ trả anh mang về ngay cho tôi. Chỉ kẹt bây giờ còn thiếu hơn
mười triệu…”. Ba Vụ chẳng hiểu ông bố thiếu tiền gì. Ông còn giữ năm mươi triệu
cơ mà?
Đêm ấy ông Nhàn bàn với bà vợ, quyết định bán hai con
trâu nái trong chuồng. Có cày máy rồi, trâu bò làm gì nữa cho bận công chăm cỏ.
Hai con trâu bình tĩnh cũng bán được mười bốn, mười lăm triệu, nhưng gấp quá,
ông Nhàn chịu lỗ mấy triệu. Cốt được việc lớn đã.
Khi cậu Út đưa được máy cày về nhà, cả làng đổ xô đến
xem. Đây là chiếc máy cày đầu tiên của xã
mà. Người ta trầm trồ khen chiếc máy đẹp quá, tiện lợi quá. Cậu Út không
kịp tắm giặt, đứng thuyết minh mỏi miệng cho dân làng về những tiện dụng của
chiếc máy. Đã có mấy người ướm hỏi trước: “ Vụ này ruộng nương nhà tôi nhờ bố
con ông cày bừa giúp nhé. Trâu đen đòi công thế nào, chúng tôi trả công trâu đỏ
thế ấy”. Ông Nhàn nở phổng mũi. “Trâu đỏ nhà tôi lấy công chỉ bằng hai phần ba
trâu đen. Bà con thấy được không?”
Cậu Út đánh máy xuống thửa ruộng trước nhà cày thử.
Máy nổ phành phành, hùng dũng lao qua cái bờ thấp. Cậu Út mắm môi mắm lợi vần
đôi caqngf lái, mồ hôi nhỏ giọt. Khi hạ thang lưỡi cày xuống, máy bỗng nổ giật
giật, khực lại, không chịu chạy mà tắt lịm. Cậu Út loay hoay giở hết các bài đã
học, gần hết buổi sáng mà chiếc máy vẫn thế. Máy khởi động lên khói mù mịt, nổ phành
phành, nhưng cứ xuống lưỡi cày là tắt ngúm. Ông Nhàn sốt ruột đi đi lại lại
trên bờ chán rồi xắn quần lên, lội ra tận nơi. “Tại sao nó không chạy? Hay mày
chưa biết lái?”. Cậu Út đang mệt phờ, liền vặc lại: “ Tại nó giở chứng chứ tại
tôi à! Bố có giỏi lên mà lái!”. “ Tiên sư mày chứ! Thế tiền tao cho mày đi học
đổ xuống cống hết à?”.
Lại phải gọi đến Ba Vụ. Anh nhờ một thờ sửa chữa trên
xưởng cơ khí huyện xuống tận nơi xem giúp bệnh tình chiếc máy. Thì ra bộ côn bị
hỏng bố nó rồi còn đâu. Phải thay bộ mới. Bao nhiêu tiền hở chú? Khoảng hai
triệu gì đấy. Trong nhà không còn đồng nào. Số tiền Ba Vụ chiếm dụng không biết
bao giờ trả lại. Mấy đêm liền ông Nhàn mất ngủ. Lo lắng. Tức và xấu hổ. Chiếc
máy nằm lù lù giữa sân như con voi chết. Bất giác ông chửi đổng: “Mẹ cha quân
lừa đảo!”. Mùa vụ đến nơi rồi, ông không biết tính cách nào cả, Bà lão từ trong
buồng ra, cầm chiếc quạt cọ phe phảy cho chồng. “Nếu phải mua cái gì nữa, tôi
cho mượn đôi bông tai bán đi mà lấy tiền”. Nghe bà nói thế ông thở phào. Đúng
là cứu tinh của bố con ông đây. Yên tâm về việc sửa máy, ông chợp mắt tới sáng.
Trong mơ ông chiếc máy cày của mình chạy phăm phăm trên đồng như đám lửa đỏ
rực. Thằng Út ngồi ngất ngưỡng lái máy, ngoác miệng cười với bố.
5/2007
P.P.Q
3. CON NGỰA BẠCH NHÀ HỌ LÝ
Đêm qua Lý Sảo không ngủ được, mắt nó
thao láo nhìn vào bếp than lập loè giữa nhà. Không phải nó lạnh, mặc dù gió bấc
thổi ù ù dưới gầm sàn, cuộn thốc, vo tròn lại rồi chui qua khe ván len lỏi khắp
năm gian nhà rộng. Bụng Lý Sảo nóng ran như ăn vụng miếng canh bí bỏng rãy. Nó
thương và lo cho con Bạch. Chập tối nghe bố bàn với mế về con ngựa .
- Mế thằng Sảo à! Con Bạch già rồi, không còn làm được
việc cho nhà ta nữa. Ta định đem bán cho lão Thạo đấy.
- Bán đi, không có ngựa thồ bí, thồ ngô xuống chợ, bố
nó có cõng được muối, gạo về bản không?
Nghe mế than phiền, Lý Sảo đã mừng thầm, nhưng bố vẫn
nói như dao chém cột.
- Phải bán thôi. Ngựa bạch bây giờ đang được giá. Lão
Thạo trả hai triệu rưỡi đấy, nó mang về nấu cao nên mới mua đắt thế. Ta đã hỏi
con ngựa nâu hai tuổi bên bản Lạn, chỉ hai triệu thôi.
Bố nói thế thì không thể khác được rồi. Nhưng Lý Sảo
không muốn thế. Nó với con bạch là anh em thân thiết. Con Bạch hơn nó một tuổi,
là quà hồi môn của ông bà ngoại cho mẹ hồi đi lấy chồng. Khi Lý Sảo biết ngồi,
đã thấy con Bạch đứng cạnh nó ở đầu sân. Khi nó tập đi, đã biết nắm đuôi con
Bạch vòng quanh sân. Lên năm tuổi, nó được ngồi trên lưng con Bạch xuống chợ
huyện vào chiều thứ bảy. Lý Sảo thương con Bạch quá, năm nay Sảo mười hai, con
ngựa mười ba tuổi, sao lại bảo nó già? Nó chỉ không khoẻ như mấy năm trước
thôi. Cả bản có cả thảy ba con ngựa trắng, chỉ con Bạch nhà họ Lý là đẹp nhất.
Hai con kia là ngựa lai nên nhỏ hơn, còn con Bạch bụng thon, ức nở, bốn chân
dài và chắc lẳn, cái bờm dày vắt về một bên, hai mắt sáng như đèn pin. Cứ đúng
ngọ, con Bạch ngửa cổ lên trời hí vang. Người già bảo nó đúng là ngựa trời,
hiếm lắm.
Năm ngoái nhờ có con Bạch mà nhà Lý làm giàu. Khi ấy
nhà nước cho cái chương trình 135, nhưng đường lên bản chưa làm xong. Trường
học, trạm y tế, bể nước sạch cần phải có
gạch, xi măng. Từ xã Kim Hạ lên bản Hoa, đèo dốc hơn chục cây số, chẳng xe nào
lên được mà chở hàng, chỉ có ngựa khoẻ mới thồ được thôi. Cứ mười nghìn đồng
một yến hàng. Gạo, gạch, xi măng hay vải cũng thế. Giá ấy là do dân bản tự quy
định, ai cũng phải theo. Mỗi chuyến vượt dốc, con Bạch chở được hai bao xi măng hay một trăm viên
gạch đỏ, thu được một trăm nghìn. Họ Lý tham tiền, mờ đất dắt ngựa đi, tối mới
về, ngày hai chuyến, bỏ túi hai trăm dễ như nhặt hạt dẻ ngoài rừng. Nhà họ Lý
đã có thêm nhiều đồ đạc mới, lại mua được cả máy xát gạo, xình xịch cả ngày
phục vụ dân bản. Bữa cơm trong nhà có thịt, cá thường xuyên, rượu lúc nào cũng
đầy vò đãi khách. Chỉ có con Bạch là gầy đi vì phải làm việc quá sức, có những
hôm nó không thồ nổi hai bao sắn qua dốc Mặt. Bây giờ nhà họ Lý muốn thay ngựa.
Chiều dắt ông
mặt trời nằm ngang núi, những bông hoa Hoàng Anh rực lên như sao rơi trên lá
rừng. Lý Sảo lững thững dắt con Bạch ra suối. Con ngựa đứng im cho Sảo kì cọ từ
trán đến mông, cái vỏ xơ mướp tỉ mẩn kì cọ dọc sống lưng, từng thớ thịt con
ngựa giần giật vì thích thú. Ngày mai lão Thạo đến dắt con Bạch đi rồi, nghĩ
đến việc đó là Sảo nhói đau trong ngực. Có mấy giọt nước mắt ứa ra, rơi xuống
lưng ngựa, tan vào dòng nước suối. Ra nhà lão Thạo là khổ lắm mày biết không?
Tao đã đến xem cái trại ngựa của lão, một hàng cột gỗ chôn dọc bãi đất có hai
dóng ngang làm nơi buộc ngựa. Mấy con ngựa gầy giơ xương cố vươn cặp môi dày ra
vơ lấy những bụi cỏ cụt lủn xung quanh, bước chân dẫm lì bãi đất thành vòng
tròn . Lũ ngựa này không cần phải chăm bẵm gì vì chúng sẽ bị đem giết thịt lấy
xương nấu cao dần. Tao cũng đã một lần nhìn thấy người ta chọc tiết ngựa bạch.
Con ngựa bị trói cả bốn chân, kéo căng vào hai chiếc cọc gỗ. Một người nắm sợi
dây buộc cổ ngựa kéo thẳng ra, một người đưa nhanh nhát dao sắc cho hở ra hai
mạch máu to bằng ngón tay út, chọn cái mạch màu đỏ tươi, lưỡi dao nhọn lách
vào, đứt phựt. Máu phun xỗi xả vào chiếc chậu gỗ, bắn cả lên mặt mũi, quần áo
người giết ngựa. Con ngựa cố vật mình chồm dậy mà không được, bốn chân co giật
liên hồi, nhẹ dần rồi im hẳn. Người ta bảo cả lão Thạo cũng không bao giờ dám
làm việc ấy, mà phải thuê người khác. Người miền núi kiêng giết ngựa bạch vì sợ
mang lại tai hoạ cho gia đình, chỉ những kẻ liều mạng hay người “ tứ cố vô
thân” mới nhận làm thuê việc này. Mỗi lần cắt tiết ngựa bạch được trả công mười
nghìn đồng, lại được bữa cơm rượu tuý luý xong mới về.
Lý Sảo sợ rồi con Bạch cũng bị đem ra cắt tiết như
thế. Thương lắm! Nó quệt nước mắt, vỗ về con ngựa.
- Bạch à! Con
người ta nhiều lúc ác lắm, ngựa không làm được việc nữa là đem giết thịt thôi.
Kiếp sau mày đừng làm ngựa nữa, hãy làm người như tao đây, được đi học, được
ngủ chăn ấm, được ăn thịt .
Con Bạch như
hiểu lời anh bạn nhỏ, nó cúi đầu đứng im.
Trong suốt cả
buổi học, đầu óc Lý Sảo để ở góc sân nhà mình, chỗ buộc con Bạch. Tan học, nó
chạy một mạch về nhà. Chỗ buộc con Bạch giờ trống không, có mấy dấu chân ngựa
như sâu hơn, chắc nó sốt ruột chờ Sảo về để chào lần cuối. Lý Sảo oà khóc. Giờ
này chắc con Bạch đã ở nhà lão Thạo, đã bị buộc chung dóng với mấy con ngựa
gầy. Bố không có ở nhà, mế bảo lão Thạo mời bố ra uống rượu tiết ngựa với thịt
nướng. Lý Sảo bỏ cơm, ra bờ suối ngồi một mình, cố nghĩ rằng con Bạch còn theo
bố đi chở gạch dưới Kim Hạ chưa về. Nhưng con Bạch lại đang ở nhà lão Thạo. Lý
Sảo bỗng giận bố quá. Sao ác thế ! Con Bạch ở vơí nhà mình bao nhiêu năm nay,
làm cho nhà mình bao nhiêu tiền, của. Giờ nó già yếu thì cũng nuôi cho đẹp góc
sân, cho vui góc vườn chứ, sao nỡ bán cho người khác giết thịt, dóc xương?
Nó bỗng đứng dậy, cắm đầu chạy một mạch. Nhà lão Thạo
ngay gần trụ sở uỷ ban xã. Lý Sảo nghe trong nhà lão ồn ào tiếng người uống
rượu, vài giọng nói đã ngàn ngạt mùi men, cố nói to lên mà không cần ai nghe
cả. Bãi ngựa ở đằng kia. Sảo nhận ra ngay con Bạch đứng hàng cuối cùng, đầu cúi
xuống như biết phận, bên cạnh là năm con ngựa trắng khác, nhưng gầy và nhỏ hơn.
Lý Sảo ngồi bệt sau bụi lá dong, im lặng nhìn ngắm con Bạch, tuy nó đã gầy đi
nhiều so với trước kia nhưng trông vẫn cao lớn gấp đôi những con khác, chả thế
mà lão Thạo dám mua nó hai triệu rưỡi. Cái đầu con Bạch cứ rũ xuống. Chắc nó
buồn lắm. Thỉnh thoảng nó dẫm chân bình bịch như sốt ruột, cái đuôi dài chấm
gót không ve vẩy như mọi ngày.
Lý Sảo cứ ngồi như thế, hết buổi chiều, không buồn để
ý đến lũ muỗi vo ve xung quanh.. Bóng đêm nhoà dần cảnh vật, chỗ con Bạch đứng
chỉ còn bóng trắng mờ. Sảo đứng dậy. Con Bạch nhận ngay ra hơi người bạn nhỏ,
đánh mũi khìn khịt, rồi hí lên.
- Suỵt! Đừng hí
lên thế, lão Thạo biết đấy.
Tiếng chó sủa làm Sảo giật mình, nó chững lại một lúc
rồi bò về phía đầu ngựa bạch, sờ soạng tìm sợi dây buộc ngựa, rút con dao ra khỏi vỏ. Con dao
sắc thế mà cắt đến nhát thứ tư mới đứt sợi dây nhựa. Nó vỗ nhẹ lên đầu con
Bạch, thì thầm. “Chạy đi ! Chạy vào rừng mà ở, không kẻ ác chọc tiết mày đấy.”
Con Bạch cọ cọ cặp môi ấm lên mặt Sảo rồi lặng lẽ chạy về phía rừng. Tiếng vó
ngựa trong đêm nghe lóc cóc theo nhịp tim đập của Lý Sảo.
Đường về nhà không thể chạy được nữa. Bóng đêm trùm
chiếc khăn khổng lồ lên núi rừng. Nó lập cập từng bước chân theo lối mòn, cố
căng hai con mắt để nhìn đường mà vẫn không rõ. Nó đành đi bằng trí nhớ. Cái
bụng bây giờ mới thấy đói, quặn thắt. Lý Sảo lo bố mế sẽ phải đót đuốc đi tìm
mình. Như vậy có nghĩa là cái mông sẽ bị sưng tấy lên vì roi mây. Thôi cố chịu.
Có đáng gì đâu vì con Bạch đã thoát chết. Nó vừa đi vừa nghĩ như thế. Huỵch !
Như là có người cầm gậy vụt ngang ống chân, làm nó ngã lộn nhào, cẳng chân đập
phải tảng đá đau điếng. Nó lộn ba, bốn vòng rồi rơi xuống vực. Dây rừng lùng
nhùng bên dưới ngăn nó lại. Lúc đầu vì quá bất ngờ nên Lý Sảo không kêu được
tiếng nào. Nó cựa quậy giữa đám dây rợ , nghe phía dưới có tiếng nước chảy ào
ào, chợt nhớ ra đây là vực Chiềng cạnh đường về bản, vực này sâu đến ba chục
thước, bên dưới là suối đá lởm chởm. May có đám dây rừng ngăn lại không nó đã
tan xác rồi. Lý Sảo sợ rúm người, không dám cựa mạnh.
- Cứu với..i..i .!
Tiếng nó vọng xuống vực, đập vào vách núi thành những
tiếng ới dài. Chân trái đau nhói. Nó nắn thử, thấy ống chân kêu lạo xạo. Gãy
xương rồi. Nó cuống lên hết gọi bố lại gọi mế, nước mắt ràn rụa chảy xót một
bên má. Bất giác nó gào lên. “ Bạch ơi ! Cứu tao ! Ngựa Bạch ơi! Cứu…” Đau và
sợ, nó ngất đi, trong đầu còn nghe như có tiếng chân ngựa lóc cóc, lóc cóc.
Vợ chồng nhà họ Lý không biết thằng con trai bỏ đi đâu
suốt từ chiều đến tối. Mế nó chạy qua mấy nhà quen thằng Sảo hay đến chơi cũng
không thấy.
- Nó buồn vì bố mày bán mất con ngựa đấy. Hay nó bỏ
sang bên ông bà ngoại rồi.
Mế nó đoán
phỏng. Bố nó vỗ bồm bộp vào miệng ống điếu, châm lửa hút thuốc. Khói thuốc lào
ngẹn ngang họng làm bố ho rúc lên như
con gà hen. Mãi mới chửi được mấy câu.
-Thằng con…mất..mất dạy. Về… tao đánh…đánh chết!
Bên ngoài có tiéng ngựa hí. Họ Lý chộp chiếc đèn pin
lia ra sân. Con ngựa Bạch đứng cào móng trước sân, miệng hí vang.
- Ô! Con Bạch dứt đứt dây chạy về này. Phai buộc nó
vào mai dắt trả lão Thạo.
Họ Lý nói thế rồi ngật ngưỡng bước xuống cầu thang .
Con Bạch thấy chủ cũ bước xuống thì quay đầu chạy ra phía rừng.
- Con quỷ kia!
Đứng lại! Tao phải bắt mày lại còn trả cho người ta chứ?
Con Bạch không nghe lời bố, cứ băng băng nước kiệu
chạy đi. Kệ xác mày! Họ Lý nghĩ thế, nhưng lại lo nhỡ có ai nhìn thấy con Bạch
chạy về nhà thì sao, dân bản cho mình là người gian dối à? Họ Lý tất tả chạy
theo con ngựa, miệng la hét ầm ĩ, cốt để cho xóm bản có người nghe tiếng. Qua
dốc bản, thấy con ngựa chạy quay lại hướng nhà lão Thạo. “Con quái này định giở
trò gì đây?” Họ Lý vừa thở, vừa lèm bàm. Đến vực Chiềng bóng con Bạch mất hút.
Họ Lý đang soi mói quét đèn thì nghe tiếng ngựa hí gần đấy. Men theo lối mòn,
bố vấp phải mấy hòn đá lổng chổng . Con Bạch kia rồi. Nó đứng chênh vênh bên bờ
vực ào ào nước chảy, cúi đầu nhìn xuống. Nó định nhảy xuống vực tự tử à? Họ Lý
nhanh tay nắm được đoạn dây thừng ở cố ngựa, kéo lại. Con Bạch vùng vằng không
đi, hai móng trước cào tung đất. Nó cứ cắm mặt xuống bờ vực, hí vang. Quỷ quái.
Muốn chết à? Miệng quát con Bạch thế nhưng họ Lý vẫn soi đèn xuống dưới. Ông
giật thót người, miệng kêu ố ố …
Lý Sảo nằm chênh vênh bên vực đá, mặt mũi xây sát,
loang lổ máu.
4. CON SUỐI CHẢY QUA CUỘC ĐỜI
Tiếng con suối cạnh nhà ồn ào đến nửa đêm, văng vẳng
như đám bạn gái cãi vã về mô-đen quần thụng hay tóc dài của nam diễn viên Hàn quốc
mới xuất hiện trên ti vi. Lắng nghe thật kĩ, lại thấy là tiếng rì rầm của rừng
già. Sao giống như tiếng Vượng mỗi khi anh nói về những dự kiến tương lai.
Người anh cao lớn thế, mà tiếng nói rủ rỉ giống con gái, những âm cuối cứ trượt
đi như gió thoảng, phải chú ý lắm mới nghe được. Hay mỉm cười nhớ lại câu nói
của Vượng lần đầu tiên: “Tên con gái gì mà Thúy Hay. Nghe tên là muốn gặp người.
Gặp người là muốn yêu luôn”. Câu tỏ tình rất tự nhiên của Vượng. Hay quơ tay
muốn ôm lấy tiếng động của rừng núi, bàn tay chạm vào vách nứa nhẵn và lặng.
Đêm bỗng bật tung tiếng tắc kè khàn khàn uể oải. Nó kêu
liền sáu tiếng. “Chẳn mưa lẻ nắng”, dân bản nói vậy mà. Con tắc kè này ở nơi
nào trong núi bỗng bò về chái nhà bên kia như muốn làm bạn với cô giáo trẻ. Phòng
ở của Hay nằm cạnh lớp học, cách một vách nứa đan kiểu nong đôi. Con tắc kè lại
uể oải lên tiếng, nó nhắc Hay: “ Đói rồi! Đói…. rồi! Đói…rồ..ì..ì”. Lạ thật,
hồi còn sinh viên Hay ít ăn lắm, bạn bè thường trêu “ăn như mèo ngửi”, mà mới
sáu tháng lên bản Chiềng cao vút này bỗng dưng cô ăn khỏe. Có thể khí hậu vùng
cao hợp với con gái. Hay béo ra, nước da trắng càng thêm trắng hồng. Kéo chiếc
gối che lên mặt, cô muốn ngủ lại, nhưng không ngủ được. Vải gối cũng thấm đẫm
mùi núi rừng ngai ngái, thơm hắc.
Nhớ lại ngày mới lên bản, Hay rùng mình. Một ngày một
đêm ngồi lắc lư trên chuyến xe khách bò chậm như rùa. Rồi hơn hai giờ ngồi xe
ôm xóc chồm chồm như cưỡi ngựa. Đi bộ mấy con dốc, lội qua ba con suối mới đến
nhà chủ tịch xã họ Giàng. Hay ngồi bệt xuống cầu thang, thở. Chủ tịch Giàng là
người đàn ông da ngăm đen, tròn như củ khoai lang. Đánh vần mãi mới xong giấy
giới thiệu của Phòng giáo dục, ông bảo. “Cô giáo ngủ lại nhà mình thôi. Lên
trường bây giờ không có chỗ nghỉ”. Hay chẳng cần biết sẽ nghỉ ở đâu, chỉ cần
được ngả lưng nằm một giấc. Tuy vậy, hai ngày sau mới có phòng nghỉ cho cô
giáo. Căn phòng cạnh lớp học, vách nứa tanh bành trống hoác. Chủ tịch xã phân
bua: “Các cô giáo trước đây cứ về nửa năm lại bỏ đi, dân bản không muốn sửa lại
nữa”. Hay cắt một số tranh ảnh từ cuốn “Người đẹp” mang theo dán xung quanh
vách nứa mới, trông cũng vui mắt. Cánh cửa bằng ván mỏng, ra ngoài không cần
khóa, đêm ngủ cài ngang cây gậy là xong.
Buổi sáng, thấy Lầu A Dúi tìm đến lớp học. Đầu trọc,
người xanh mướt. “Cô giáo lại cho mình đi học chứ?”. Chàng trai bản gầy gò này
đã hai mươi tuổi, chỉ kém cô giáo hai tuổi và đang học lớp 3. Dúi là học sinh
cá biệt của Hay trong số mười lăm học sinh của cả ba lớp 1-2-3. Mỗi lần có cô
giáo mới về, Dúi lại xin đi học. Khi cô giáo bỏ đi thì Dúi cũng bỏ lớp. Thế nên
học mãi chưa qua nổi lớp ba. Hồi đầu năm, khi lũ học trò đủ các lứa tuổi kéo
nhau đến trường dăng kí học lại, Dúi đến sau cùng, bàn tay có những móng dài
cáu bẩn gãi mãi mái tóc lởm chởm. “Mình là Lầu A Dúi, đang học lớp hai, à lớp
ba. Cái chữ nó sắp quên mình rồi, cô giáo cho học lại chứ?”. Hay ngạc nhiên khi
thấy chàng thanh niên cao nghều đến xin học. Sau Dúi cũng nói thật “Mình thích
cô giáo thì đi học thôi”. Hay bảo phải hỏi ý kiến Chủ tịch xã. Chủ tịch Giàng
vỗ tay. “Cứ cho nó đi học! Xã vận động được nhiều người xóa mù là được huyện
khen đấy”. Vậy là Dúi được vào lớp. Cũng sách vở, bút mực. Cậu được xếp ngồi
bàn cuối vì cao như cây sào chống cửa. Lớp học được chia làm ba nhóm. Lớp 3 có
bốn học sinh, trong đó có Dúi, ngồi bàn cuối, ở giữa là năm học trò lớp 2. Bảy
học trò lớp 1 bé tí ngồi phía trên. Hay lần lượt đọc bài rồi ra bài tập chia
cho từng “lớp”, sau đó kiểm tra.
Lũ học trò đầu tiên còn tập trung vào học, một lúc sau
đứa kêu đói, đứa nhảy ra sân chơi hoặc chạy lung tung sang “lớp” khác tán gẫu.
Dúi ê a đọc bài được một lúc rồi ngáp ngắn ngáp dài. Ngáp đến lần ba thì cậu
lỉnh mất, mãi sáng hôm sau mới đến lớp. Mấy đứa học trò lớn mách cô giáo: “Anh
Dúi đi tìm thuốc phiện đấy!”. Hay hoảng hồn. Thế ra cậu học trò lớn nghiện
thuốc phiện. Có người chỉ cho cô ngôi nhà cuối bản Dúi hay đến. Hay đi tìm và
thấy Dúi đang nằm bẹp bên ngọn đèn mỡ lợn cháy leo lét. Tẩu thuốc reo o… o...
Dúi buông tẩu, rót một cốc nước sôi trong
phích ra đổ tuột vào mồm. Đang lơ mơ nhưng cậu cũng nhận ra đôi má đỏ
ửng và cặp mắt tròn đen của cô giáo, đôi mắt đầy vẻ trách móc. Dúi cảm thấy
mình có lỗi, cố ngồi dậy dựa lưng vào vách gỗ. Đôi môi thâm xì mấp máy: “Năm ngoái
mình đau bụng, chúng nó bảo hút thuốc phiện thì khỏi. Bây giờ quen thuốc mất
rồi”. Hay nghiêm mặt: “Dúi còn hút thuốc phiện thế này, sẽ không được đi học
nữa đâu”.
Một tuần liền Dúi không đến lớp. Nỗi lo lắng thúc giục
Hay tìm đến nhà cậu ta. Bà mẹ Dúi, váy chàm xoắn quai cồng đang cho lợn ăn dưới
sàn, thấy Hay thì chỉ lên nhà trên. “Thằng Dúi nằm trên ấy. Nó không đi học
được đâu”. Lập cập leo hết chín bậc
thang nhà sàn, Hay dứng một lúc lâu mới nhìn thấy Dúi ngồi gục đầu trong xó
nhà, một chân bị khóa vào sợi xích dùng để đóng móng ngựa, sợi dây xích lại
khóa vào cột nhà. “Ai trói Dúi vào đây?”. Hay cố nín thở chịu đựng mùi hôi hám
từ thân thể của Dúi, bước vào hỏi han. Cặp mắt lờ đờ, giọng Dúi thều thào. “Mình
tự trói đấy cô giáo ạ. Không hút thuốc phiện nữa. Mình còn phải đi học cho hết
lớp ba chứ”. Cô giáo thấy cay mũi. “Thế là tốt lắm Dúi ạ. Cả lớp đều mong Dúi đấy.
“Cô giáo có mong mình không?”. Hay không kịp nghĩ, liền gật đầu. Dúi cười méo
xệch. “Thế thì mình nhất định cai được thuốc. Cô giáo đừng giận mình nhé”. Bỗng
Dúi rúm người, hai tay cào cấu xuống sàn nhà. Ánh mắt cậu nhìn về phía bậu cửa
sổ, ra dấu giúp đỡ. Phía ấy có bát nước đen sì sì, chắc là thuốc cắt cơn. Hay
bưng bát thuốc, cố dựng Dúi ngồi dậy. “Nào! Uống đi Dúi. Cố lên!”. Mắt Dúi chạm
phải bàn tay trắng hồng có những ngón tay thon dài của cô giáo. Cậu cố uống một
ngụm, lại phun phèo ra kêu đắng. Bàn tay cô giáo chùi nhẹ vào khóe miệng Dúi,
cậu cố sức bập môi vào bát thuốc và uống ừng ực. Cố ngóc đầu dậy, nó hỏi: “Cô
giáo không bỏ bản mình đi như những cô giáo khác chứ?”. Hay chỉ biết gật đầu.
Cô khóc vì thương Dúi. Cậu ta nằm thẳng cẳng, thở hắt ra. “Mình nhất định sẽ bỏ
thuốc phiện”.
Tiếng suối dường như cũng mệt mỏi thiếp đi. Hay thấy
mình như chim bay vèo xuống núi, rồi lại thấy mình co ro trước khung ngang
chiếc xe đạp của Vượng. Đàng trước là con dốc nhỏ, ở đó có quan nem rán hai
người hay đến ăn. Vượng hổn hển đạp xe, bộ ngực vuông ấm nóng miết vào lưng cô
theo từng nhịp đạp. “Tiền lương gia sư tháng này nhiều, chiêu đãi em món nem
rán cả tuần nhé!”. Hay bảo. “Cả đời vẫn được! Nhưng tốt nghiệp xong, ở lại
thành phố với anh nhé?”. Vượng hỏi thế mà không để ý câu trả lời lấp lửng của
Hay. Nhà cô nghèo, quê cô nghèo, học xong Hay chỉ muốn về quê mình. Được như
vậy là quí lắm rồi, chứ làm sao dám mơ ở lại thành phố. Mãi đến khi Hay cầm
quyết định lên tăng cường cho bản Chiềng ở một vùng cao biên giới, thì cả hai
đều bị choáng. Vượng không biết làm gì cho người yêu ngoài mỗi tuần một lá thư.
Những lá thư có khi hai, ba tháng mới đến tay Hay vì lũ suối không cho người
đưa thư sang bản. Lá thư gần đây Vượng báo tin đã tìm cho Hay một việc làm ở
phố. Nhân viên trực điện thoại, tháng hai triệu đồng, chỗ ở miễn phí, cơm nước
tự lo. “Trái nghề một chút nhưng được gần nhau em ạ!”. Hay đọc thư mà mường
tượng tiếng Vượng thoảng nhẹ như gió thổi. Nhịp sống thành phố đang trở lại trong
tâm trí cô như ấm nước dần đun sôi.
Buổi sáng hôm ấy lên lớp Hay không chú tâm vào giảng bài.
Lũ học trò thấy cô giáo nhìn ra phía bờ suối. Chúng lại nhìn nhau với ánh mắt
lo lắng.
Đoạn đường từ lớp học ra bờ suối la liệt những đống
phân bò. Đêm qua chúng kéo về nằm từng đàn trong bản. Đàn bò thả rông mỗi khi từ
núi kéo về bản là sắp có mưa rừng. Hay ngồi trên tảng đá quen thuộc, dòng nước
trong vắt thấy rõ cả những hòn sỏi xám. Bọt xà phòng nở xòe thành đám mây xốp
cầu vồng, trôi biến về cuối ghềnh đá. Bỗng nhiên dòng nước dưới chân cô trở nên
đục ngầu. Hay vừa cầm chiếc áo giặt dở, định chuyển sang hòn đá khác thì dòng
suối réo ào ạt. Một thác nước từ sau lưng Hay đổ ập xuống, cuốn phăng Hay ra
giữa dòng. Sặc sụa vì nước, cô trượt khỏi gờ đá.
Hay tỉnh dậy trong căn phòng của mình. Trời đã tối vì
chung quanh cô nhập nhòa những ngọn đèn dầu. Những bộ mặt lo âu của các bà, các
cô trong bản. Thấy Hay mở mắt, họ đồng loạt reo lên “Cô giáo sống rồi!”. Hay
cựa mình, toàn thân đau nhức. Mọi người bảo cô hãy nằm yên. Họ tranh nhau kể
chuyện cô bị lũ cuốn đi, may có cậu Dúi nhìn thấy bèn liều mạng băng xuống cứu.
Khi đẩy được được cô giáo vào bụi lau sát bờ, Dúi trượt tay bị dòng nước hung
hãn cuốn đi. Mới cai thuốc, cậu còn yếu quá. Đàn ông trong bản chia nhau tìm cả
đêm mà không thấy. Hay chỉ kêu được “Dúi ơi!”, rồi ngất lịm.
Khỏe lại. Hay ra lớp. Bọn trẻ im thin thít không đùa
giỡn như mọi ngày. Chỗ Dúi ngồi cuối lớp giờ trống không. Cô cảm thấy những ánh
mắt trẻ thơ lo lắng, dò xét nhìn mình.
Đêm. Hay quyết định viết thư cho Vượng, viết một lèo
không băn khoăn “Liệu có phép màu nào cho tình yêu chúng mình không anh? Em yêu
anh, nhưng bỏ lớp, bỏ bản mà về lúc này thì không thể. Anh có chờ em không?”.
Rừng đêm thăm thẳm. Hay vươn vai hít đầy lồng ngực mùi
hương rừng ngây ngất. Cô cảm thấy có điều gì đó thiêng liêng hơn hẳn tình cảm
lứa đôi.
5. CỔNG TRỜI MÂY PHỦ
Đám mây mù từ trên đỉnh núi Quạ bò dần xuống dốc Cổng
Trời, gặp ngôi nhà gỗ ven đường thì dừng lại, hóa thành mụ ma rừng đầu tóc rối
bù, trắng xóa, chạy cuồng xung quanh. Tìm thấy khe cửa nhỏ, mụ bèn lách qua,
chui vào. Làn khí lạnh bất ngờ làm cô gái rùng mình. Cô cúi xuống thổi bùng bếp
củi, then gỗ reo cười lách tách. Mụ ma rừng chững lại, phả hơi thở mù mịt một
góc nhà. Chừng như không chịu nổi hơi
nóng, mụ lại lách qua khe cửa, chạy mất dạng.
Mẩy mở to đôi mắt đượm buồn nhìn ngọn lửa. Đêm đã qua
mà không thấy bố về. Sau tiệc rượu nghiêng ngửa ở đâu đó, bố lại quên đường về
nhà rồi. Liệu bố có được nằm ấm bên bếp lửa, hay co ro bên góc sàn nhà nào? Bố
có rét không? Chiều, thấy Mẩy ngồi thừ bên Cổng Trời, bố cằn nhằn:
- Về mà lấy chồng thôi! Con gái Dao mười tám là có con
dắt, con địu rồi. Mày đừng có chờ cán bộ tỉnh nữa. Nó vui miệng thì hứa thế
thôi, chứ nhiều việc lắm, nhớ đến mày thế nào được.
Bố hất nhẹ cánh tay phải, như hờn dỗi, loạng choạng
bước đi, bàn chân không bám đất, lưng áo chàm bạc cong như cánh nỏ.
Trong lòng Mẩy rất buồn. Lâu nay cô có tật ngồi bên
cửa, ngóng ra con dốc trước nhà. Bên dưới Cổng Trời, nơi mặt trời lên, là con
đường men theo sườn núi nhấp nhô, thấp dần, dẫn xuống trường dân tộc nội trú
của cô năm nào. Sự chờ đợi làm trong người bứt rứt, khó chịu, không cho Mẩy làm
được việc gì cả. Cô không tin cán bộ tỉnh nói dối, nhất là bác phó Chủ tịch
tỉnh. Tết vừa qua, xã Xuân Sơn vui mừng tổ chức lễ thông đường. Con đường mới
được làm nối xóm Thượng tới bản Dù. Trong đoàn cán bộ tỉnh lên chúc Tết, có một
bác đầu hói, to cao, hỏi các em trong bản có ai học hết lớp 12 chưa? Cả bản chỉ
có một mình Mẩy. Bác cán bộ khen giỏi, hỏi Mẩy có nguyện vọng gì không. Mẩy trả
lời ngay, như là có ý định từ trước.
- Cháu muốn được học nghề thuốc, mai này về chữa bệnh
cho dân bản.
Nói được thế, mà cô rơm rớm nước mắt nhớ thương mẹ.
Mẩy còn chưa quên cảnh mẹ cô ôm bụng quằn quại, đau đớn kêu thét lên trong
tiếng cầu khấn ê a của thầy mo. Mẹ đau suốt một ngày, một đêm thì chết. Thầy mo
nói con ma rừng bắt mẹ đi, vì bố Mẩy không làm lễ cúng sớm. Sau này xuống học
trường nội trú, cô giáo Lan nghe Mẩy kể lại thì cho rằng mẹ bị đau ruột thừa.
Bệnh này nếu biết sớm, đi bệnh viện mổ ngay thì đơn giản, nếu quá hai bốn giờ,
ruột vỡ ra là chết. Bác cán bộ tỉnh nghe nguyện vọng của Mẩy thì hứa:
- Tốt lắm! Cháu cứ đưa giấy tờ và phiếu báo điểm cho
chú thư ký này nhé. Bác sẽ gửi cháu vào học trường Trung cấp y tế của tỉnh.
Mẩy nhìn bác trán hói, còn ngỡ ngàng chưa tin vào tai
mình, thì bác Chiến Chủ tịch xã ghé tai:
- Bác ấy là phó Chủ tịch tỉnh đấy!
Từ lúc đoàn xe ô tô to, nhỏ nối đuôi bò ì ì qua Cổng
Trời, Mẩy đã hồi hộp chờ đợi. Mùa xuân trôi qua thật nhanh, hoa mận rụng trắng
lối vào bản, đầu cành đã nhu nhú quả non bé xíu. Tháng ba đem nắng ấm đến,
những quả mận cựa mình, to dần, chín mọng giòn tan. Vẫn không thấy tin tức gì
về việc gọi học. Mẩy trở thành cô gái vụng về nhất bản. Làm cỏ nương thì lưỡi
cuốc xới bung cả gốc ngô, nấu cơm thì bữa sống, bữa chín. Tới mùa hè, cô đánh
liều đi bộ hai ngày đường về trường nội trú. Cô giáo Lan mừng rỡ khi gặp đứa
trò ngoan. Cô khen Mẩy lớn và đẹp hơn nhiều so với hồi ở trường.
- Chưa có bằng tốt nghiệp đâu. Khi nào có, cô sẽ gửi
về tận xã cho.
Mẩy lắc đầu.
- Em hỏi cái giấy của trường y tế thôi. Nó có gửi về
đây không?
Cô giáo bảo, chẳng có giấy tờ nào gửi về đây cả. Mẩy
ngược núi, trên vai cõng gùi đá nặng.
Mẩy học xong lớp 5 thì mẹ mất, bố lại không muốn cho
cô đi học xa. Chủ tịch Chiến đến tận nhà, khuyên:
- Ông Triệu à! Cả bản chỉ có con Mẩy học giỏi, phải
cho nó xuống học trường nội trú nữa. Sau này nó còn về làm cán bộ xã chứ.
Bố lo lắng:
- Nó lớn rồi! Còn phải ngủ thăm, bắt chồng. Nó đi học
xa, cái bếp nhà ta tắt lửa à?
- Sao người anh em nói lời ngắn thế! Phải cho cháu học
thành bác sĩ, để dân bản không ai phải chết như mẹ nó nữa.
Nhắc đến vợ là ông Triệu buồn. Ông cúi đầu, nghĩ một
lúc rồi nói:
- Vậy ta cho chủ tịch xã mượn con Mẩy ba mùa mận thôi đấy!
Mẩy học khá, hết ba mùa mận, cô muốn ra trường nội trú
tỉnh học nữa nên cuối tuần về nhà xin phép bố Triệu. Bố không có nhà, cánh cửa
liếp xộc xệch buộc qua loa. Hỏi hàng xóm, có người nói hôm trước gặp bố ở lễ
“Lập tỉnh” nhà họ Cấn bên bản Nun. Mẩy liền
đi tìm. Đám lễ đã tan, chỉ còn mấy anh say rượu, nằm gác chân lên nhau dưới gốc
cọ. Thấy Mẩy hỏi bố, một anh cố gượng ngóc đầu dậy:
- À...à...! Em là....là em M...m...Mẩy bên
Cổng...Trời, bọn anh đi qua, vẫn...thấy mà. Đi học...nội...tr...trú về, lớn rồi....đẹp
...rồi. Có người...ngu...ngủ thăm chưa?
- Có thấy bố tôi đâu không?
- Bố nào? B...ố em hả? Ông Triệu chứ gì? Lại sang
...bản Lấp uống rượu ...nhà mới rồi. Để...anh đưa em đi!
Anh chàng định đứng dậy, nhưng lại ngã kềnh, cúi gập
người nôn ọe. Mẩy đi bản Lấp theo lời kẻ say rượu, men theo những bậc đá cao
dần lên phía bản người Mông. Qua đám nương nhà, những thân cây ngô khô quắt, đổ
gục giữa cỏ rậm, mấy con khỉ chí chóe tranh nhau vài bắp ngô còn sót. Mẩy đi
học, ở nhà bố không chịu làm nương, đói thôi. Bàn chân vấp phải hòn đá, đau
điếng, máu chảy rịn ra khỏi dép. Mẩy ngồi sụp, qườ tay ra sau lưng tìm một nắm
lá. Có tiếng con trai vỡ giọng ồm ồm.
- Đắp vào chân đi, khỏi ngay thôi mà.
Trước mặt Mẩy là ba thằng trai trẻ mắc áo chàm, quần
cạp lửng. Thắt lưng đứa nào cũng đeo dao, vai vác súng kíp. Rõ là mấy đứa Mông
trên núi xuống. Thằng cao nhất, chìa cho
cô miếng lá nhai sẵn. Cô vội đón lấy, đắp vào vết thương, cảm thấy nước bọt
người trai lạ còn nong nóng.
- Mày đi đâu về bản Mông ta?
- Tôi đi tìm bố trên bản Lấp.
Một thằng thấp đậm bảo:
- Đi tìm bố à! Nếu không thấy thì mai hãy về. Tối rồi
đấy!
Ba thằng trai Mông lặng lẽ quay bước. Mặt trời đã lấp
sau núi Quạ, hắt lên chút nắng vàng nhợt. Phía bản Lấp, núi đã đen sẫm. Mẩy tập
tễnh bước đi, chân đau nhức. Nước mắt cô trào ra, tủi thân. Mẩy cất tiếng gọi.
Bố ơi! Vách núi vọng lại ơi...ơi...ơi, như chế nhại. Có tiếng con thú nào kêu
thảm trong rừng sâu. Hình như có bước con thú nào rình rập đằng sau. Mẩy sợ hãi
quay lại, chỉ có màn sương chiều giăng kín lối về. Gặp gốc cây to, Mẩy dựa lưng ngồi nghỉ mệt.
Ba khúc củi cháy rừng rực giữa bếp, mà sao vẫn lạnh
quá. Cô lăn vào gần bếp, vẫn lạnh buốt cái lưng. Mẩy quyết định ngồi dậy, xuống
trường. Đường đi tối mờ, có quãng đen thẫm, vài con mắt sao đêm lấp ló trên
ngọn cây cao. Mẩy đang mò mẫm tìm đường, bỗng có con thú lớn trong rừng nhảy
ra, vồ lấy cô.
- Bố ơi! Cô giáo ơi!
Mẩy sợ hãi kêu cứu, nhưng con thú đã vác cô trên lưng,
chạy vụt vào rừng. Mẩy ra sức giãy giụa, chợt tỉnh cơn mê ngủ. Nhưng sao con
thú vẫn cõng cô trên lưng, chạy huỳnh huỵch, Mẩy còn nghe tiếng nó thở hồng
hộc. Cô cuống lên, nắm bừa được hai thân cây ngô bên dưới, cố sức ghì lại.
Phập! Phập! Nghe như nhát dao chém xuống, tay Mẩy nhẹ hẫng, thân ngô đứt lìa.
Con thú nhảy qua hàng rào, Mẩy giơ tay nắm được cành mận quả lúc lỉu. Phập!
Cành mận lại bị phạt đứt. Ánh lửa trong nhà hắt ra, đủ cho Mẩy nhìn rõ ánh dao
loang loáng từ hai bóng người chạy lúp xúp đằng sau, còn con thú là một người
đàn ông cao lớn.
Người đàn ông đặt Mẩy xuống chiếc nệm trải dưới đất.
Đèn dầu lờ mờ, cũng đủ cho Mẩy nhận ra khuôn mặt thằng trai Mông lúc chiều đã
đưa cho cô nắm lá nhai sẵn. Cái mặt ướt đẫm mồ hôi, nhưng đầy hả hê. Góc nhà
đằng kia nhô lên cái đầu tóc rối bù, tiềng nói ồ ề:
- Bắt được rồi à! Cho nó ngủ đi, mai mời thầy mo về
cúng ma.
Mẩy kêu lên:
- Thả tao ra! Tao còn đi tìm bố. Tao còn phải đi học.
Thằng trai cười hiền lành:
- Không thả được đâu! Ta đi tìm bắt vợ, thấy em mặc
quần áo Kinh mà nói tiếng “nước trong”, không biết người bản nào, nhưng ta
thích thì bắt thôi. Còn bố, khắc đi, khắc tìm về mà.
Chết rồi! Mình bị trai Mông bắt về làm vợ. Cô vùng dậy
chạy ra cửa, định thoát. Thằng trai Mông vẫn ngồi cười. Sau cánh cửa có hai
thằng trai khác ngó đầu vào, nhăn nhở.
- Có chúng tao giữ ngoài này rồi.
Thằng trai Mông kéo Mẩy lại chỗ tấm nệm, ấn ngồi
xuống. Cô thất vọng òa khóc. Rồi cơn mệt và đói làm cô thiếp đi. Cô mơ thấy tiếng
đập cửa, tiếng bố gọi. “Mẩy ơi! Mẩy à!”. Mẩy giật mình thức dậy, nhìn thấy
thằng trai Mông chĩa súng kíp đứng chặn cửa.
- Ai đấy?
- Páo à! Công an Bàn đây! Mở cửa ra!
Cánh cửa mở ra, ánh đèn pin quét khắp trong nhà, dừng
lại ở chỗ tấm nệm Mẩy nằm. Tiếng ồ ề lại cất lên:
- Cán bộ Bàn à! Đến nhà ta có việc gì?
- Chào ông Lủ! Mình dẫn ông Triệu đi tìm con gái thôi .
Nghe nói thằng Páo mới bắt được một đứa?
- Ờ! Nó đi bắt vợ đấy mà! Bắt được rồi! Ngày mai cúng
cho ma nhà nhận người mới.
- Ồ! Thế là dân bản sắp được uống rượu mừng rồi. Nhưng
con Mẩy mới mười bốn tuổi, chưa cưới được đâu.
Mẩy chạy lại ôm chầm lấy bố. Ông Triệu người còn nồng
nặc mùi rượu, xoa đầu con.
- Con gái về sao không nhắn cho bố biết! Bố sai rồi,
để con gái lạc tới đây, khổ sở quá.
Công an Bàn bảo bố con ông Lủ:
- Tục người Mông bắt vợ, ta không cản đâu. Nhưng bây
giờ phải đưa cô Mẩy về trụ sở xã. Ngày mai Páo đem giấy tờ hộ khẩu xuống, cô Mẩy
cũng thế. Nếu đủ tuổi kết hôn, xã cho làm đám cưới thôi.
May mà có cán bộ xã nói mãi, bố mới đồng ý cho Mẩy đi
học nữa. Chuyện bị bắt về bản Mông mới đó đã bốn năm. Mẩy nghiêng người soi vào
thùng nước, một bông hoa “ người” tròn trịa, trắng hồng với đôi mày vút cong
đang nhìn cô. Cái cô nàng sau mặt nước kia có chờ đợi đám cưới không? Ta còn đang chờ một lời
hứa để đi học nghề thuốc. Nhiều đêm, Mẩy tắt đèn trong nhà. Nhưng bố lại thắp
đèn lên. Ngọn đèn đêm ở nhà một cô giáo Dao mới lớn, báo hiệu rằng trong nhà
chưa có chàng trai nào đến ngủ thăm. Ai chưa vợ thì có quyền đến. Mẩy chưa muốn
có chồng. Thực lòng cô cũng có cảm tình với một người. Đó là Hải người bản Lấp,
đang làm hợp đồng cho hạt kiểm lâm huyện. Họ biết nhau qua những lần Hải đến
hướng dẫn bà con bản Mẩy ươm giống chè Shan.
Hải ít nói, hiền lành và giỏi việc. Một đêm Mẩy nghe tiếng kẹt cửa, có bóng
người, lẻn vào buồng. Nỗi sự hãi bị bắt cóc từ bốn năm trước làm cô choàng dậy,
rút con dao dưới đầu giường, cầm lăm lăm. Nhưng cô nhận ra Hải, anh rón rén đến
ngồi bên giường, thật lâu không thấy nói gì, cũng không dám vén màn chui vào. Mẩy
nằm im, chờ đợi. Rồi cóc cũng mở miệng.
- Anh biết Mẩy từ hồi bị thằng Páo bắt về bản Mông cơ.
Bây giờ Mẩy đẹp hơn nhiều, đẹp như hoa Hoàng Anh bên suối Chiềng ấy. Anh muốn
hai ta thành chim đậu chung cành được không?
Má Mẩy nóng ran, cô ấp úng.
- Mẩy còn phải đi học trường y. Cán bộ tỉnh nó hứa
rồi.
Hải không nói gì thêm. Mẩy nằm xích vào trong, đặt con
đao vào giữa, rồi ngủ mất.
Mấy đêm sau Hải lại đến. Lần này anh chui vào màn,
ngồi tỉ tê trò chuyện. Hải nói thương bố Triệu lắm, cũng thương Mẩy nhiều lắm.
Anh muốn về ở rể nhà họ Triệu, giúp bố làm thêm cái nương, trồng thêm cánh
rừng, nuôi cho Mẩy một đàn dê thật đông, thật béo, muốn...
Mẩy không nghe hết được lời của Hải. Cô cảm thấy hơi
ấm thân thể con trai ngay bên mình. Cái ý của Hải thật hợp tình, hợp lý. Con
gái bản Dao cũng không ao ước gì hơn là tìm được người chồng cùng núi, cùng
bản, lại chịu thương chịu khó. Sự háo hức cuộc đời sinh viên đã nguội nhạt mất
rồi, sau bao nhiêu ngày chờ đợi. Bố bây giờ già yếu, cô đơn như con sơn dương
gãy sừng, quanh năm chìm đắm trong rượu. Có được Hải thì tốt quá. Cánh tay Hải
đã vắt qua bụng Mẩy, tiếng anh tha thiết:
- Anh thương Mẩy thật bụng đấy! Nếu em đồng ý, anh xin
phép gia đình sang đây ở với bố, với Mẩy. Hai năm sau làm đám cưới cũng được
mà.
Buổi sáng, Mẩy thức dậy muộn hơn mọi ngày. Cô còn đỏ
mặt, khi nhớ lại những lời yêu thương đầu đời. Có được Hải, Mẩy mừng lắm. Theo
luật tục, anh sẽ sang ở rể nhà Mẩy hai năm, rồi làm lễ cưới đón dâu về nhà, nếu
có con rồi thì càng tốt.
Phía đầu dốc, tiếng vó ngựa lóc cóc. Chú cán bộ xã
ngất ngưởng trên yên, vừa nhìn thấy Mẩy đã gọi:
- Có giấy gọi đi học rồi Mẩy ơi! Ba ngày nữa là nhập
trường đấy. Giấy tờ đi lâu quá. Phải uống rượu mừng thôi.
Mẩy bàng hoàng, tưởng ngủ mơ. Thì ra cán bộ tỉnh không
quyên lời hứa, mà tại bây giờ nhà trường mới khai giảng. Nhưng thật khó cho Mẩy rồi. Đúng lúc cô muốn
đi lấy chồng, thì có giấy gọi. Đi học ba năm, liệu Hải có đồng ý không? Hay là
mình trả lại giấy cho cán bộ? Tờ giấy lưỡng lự trên tay Mẩy. Vừa nghĩ đến thì
thấy Hải chạy từ trên Cổng trời xuống, áo kiểm lâm phanh ngực.
- Mẩy ơi! Có giấy đi học rồi! Có giấy gọi rồi.
Hải dừng lại, vừa thở vừa cười.
- Bây giờ bỏ anh cho ai chứ?
- Nếu anh Hải không đồng ý thì Mẩy không đi học đâu!
- Sao không đồng ý! Mẩy đi học làm thầy thuốc cho bản
mà. Anh sẽ ở nhà với bố, chờ Mẩy đi học về. Xin ở rể thêm một năm nữa, bố Triệu
cho thôi mà.
Bên cánh cửa nhỏ, ông Triệu lom khom đứng cười, gật
gật đầu. Mặt trời rụt rè bò lên ngang núi Quạ. Mây trước Cổng Trời tan ra,
loãng dần. Sắc núi xanh mướt mái tóc con gái vừa mới gội.
6.
ĐỘI NHẠC HIẾU LÀNG HOA
Tiếng trống rơi mệt mỏi. Tom!...Tom!Tom! Chiếc nhị của
ông Lạc ri rỉ khóc. Tiếng kèn của lão Cường ậm ọe, nghẹn tắc. Suốt từ lúc phát
tang đến lúc cúng cơm tối cho người chết, cánh ông Tạo chưa được đồng tiền
thưởng nào, ngoài hai chục nghìn tiền đặt lễ và bữa cơm trưa ăn vội.
Cha tiên nhân thằng Tế, con cái mất dạy. Tự nhiên xui
bố đâm đầu vào bụi tre gai. Sáng ngày, nó lượn xe về bảo ông Tạo:
- Có đám ma ngoài thị xã, bố vợ phó Chủ tịch tỉnh đấy.
Con bận đám bên São, bố có đi được không?
Đám ấy không nhận còn nhận đám nào! Ông Tạo quáng
quàng gật đầu. Chưa làm đám cho nhà quan chức cấp tỉnh bao giờ, ông cũng tưởng
tượng được đám ma sẽ đông nghịt ngưởi phúng viếng và chiếc hòm gỗ của ông sẽ
chặt những đồng tiền chẵn, tiền lẻ.
Hai chiếc xe ôm chở bốn ông và lỉnh kỉnh kèn trống lên
thị xã. Ông Tạo mở cờ trong bụng. Cả một dãy phố đậu kín những xe con, xe mẹ,
xe máy các loại. Người ra vào tấp nập.
Một ông trung niên trán hói, bụng trống cái chặn bốn ông ở đầu ngõ.
- Có phải đội nhạc hiếu ông Tế làng Hoa không?
Ông Tạo cáu, định vặc lại. “Đây còn là bố ông Tế cơ”,
nhưng xem cách thiên hạ gọi con mình bằng “ông” thì cũng nên cẩn trọng. Vừa
ngồi xuống, chưa kịp uống nước, người nhà đã bưng ra cái đĩa sứ to đặt bao
thuốc Vinataba, lá trầu, quả cau và tờ bạc hai chục nghìn. Tay trán hói gác cái
bụng trống lên bàn, nói:
- Gia đình thành tâm có chút lễ mọn!
Rồi hắn ta nói một lèo:
- Ta thống nhất thế này ông Tế nhá! (nó nhầm mình là
thằng Tế). Cụ nhà tôi hai năm mươi về chầu tổ tiên. Khách khứa thì đông, mong
các ông kèn trống nhiệt tình cho cụ mát mặt.Tiền nong không thành vấn đề. Buổi
tối, đúng mười một giờ ta nghỉ. Buổi sáng, sáu giờ vào việc. Khi có khách
viếng, các ông không phải than khóc gì cả, cứ chơi bài Lưu thủy hay Hồn tử sĩ là
được. Nhớ là phải chơi hay đấy.
Bài Lưu thủy
“xôi xôi thịt, xôi thịt là thịt xôi” mình biết rồi, còn Hồn tử sĩ là bài nào? Ông Tạo băn khoăn. Thấy vẻ mặt ông Tạo, tay
trán hói căn vặn:
- Sao bảo đội nhạc hiếu của ông, bài nào cũng chơi
được cơ mà?
- Xin lỗi bác, có khi anh em chưa nhớ ra...
Nó bèn giơ tay, chơi kèn mồm:
- Ten ten ten, ten tén ten, ten tén tèn...Đêm âm u...ai
khóc than... trong sương mù. Nhớ chưa?
- Ối giời ơi! Đây là bản mặc niệm, ngày nào chúng tôi
chẳng tấu.
Sau này ông Tạo mới biết tay trán hói là Giám đốc Sở
Văn hóa, đích thân làm trưởng ban tổ chức tang lễ. “Thảo nào nó hành mình như
là bố nó chết ấy”.
Chờ đến lúc phát tang, đội nhạc hiếu mới có dịp kèn
trống khua om lên một hồi. Sau đó khách viếng ùn ùn, cánh ông Tạo ngồi im xơi
nước. Không giống những đám ở quê toàn nhờ đội nhạc hiếu cầm trịch hướng dẫn, đám
này có ban điều hành hẳn hoi. Thường, nhà đám có khách viếng, phải chờ nhạc
hiếu gọi “tích kê’, đến ai người ấy vào viếng, đặt một, hai nghìn nhờ đội nhạc
than thở vài lời với người chết. Có lúc đông quá, nhiều người không chờ đến
lượt mà len vào giúi cho ông Tạo năm, mười nghìn, rỉ tai vài câu, thế là được
gọi trước. Những đám như thế, đội ông Tạo thắng to. Bây giờ, đội nhạc hiếu bị
đẩy ra ngồi góc hè. Trưởng ban tang lễ là tay trán hói, cầm một xấp giấy, đứng
trước micro giới thiệu từng đoàn một. “Xin
trân trọng giới thiệu và kính mời đồng chí A cùng đại diện Tỉnh ủy, Ủy ban nhân
dân tỉnh X vào làm lễ viếng”. “ Xin giới thiệu và kính mời đại diện Sở Y vào
làm lễ...”. “ Xin mời bà C, Giám đốc công ty...đặt lễ”. Từng đoàn, từng
đoàn vào dâng lễ, thắp nhang, đi vòng quanh linh cữu, dòm mặt người chết qua ô
kính trên quan tài, đoàn nọ nối đoàn kia, ra vào chóng mặt. Đội ông Tạo khô cổ,
mỏi tay chơi hết bài Lưu thủy đến bài
Hồn tử sĩ, chiếc đĩa to để trước
chiếu không một đồng bạc lẻ. Tiếc thật, cứ như những đám khác, ông Tạo “khóc”
khản cổ, thu hàng triệu bạc chứ bỡn. Đêm vẫn nườm nượp khách, gần khuya con
cháu mới nhờ nhạc hiếu khóc lóc vài câu. Suốt hai ngày vất vả, cho đến khi đưa
linh cữu ra nghĩa trang, chiếc hòm gỗ của đội nhạc hiếu chỏng chơ mấy tờ bạc
mười nghìn mới cứng. Vẫn tay trán hói gặp ông Tạo.
- Thay mặt gia đình, xin cám ơn sự tận tình của các
ông. Giờ tiền công thế nào, chúng tôi xin gửi.
Ông Tạo mặt nặng như chì.
- Các đám khác, chúng tôi lấy năm trăm nghìn. Còn đám
cụ đây, tùy tâm gia đình.
Họ đưa ra chiếc phong bì mỏng.
- Đây là hai triệu tiền công. Còn bốn trăm này, biếu
các ông đi đường nước nôi.
Tiếng là tiền công hậu hĩnh, gấp bốn lần ở quê, nhưng
không ăn thua. “Ba đồng tiền công không bằng một đồng tiền thướng”. Lỗ to. Lệ
thường, sau khi xong đám, đội nhạc hiếu gửi lại năm chục, một trăm thắp hương
cho vong hồn người chết. Hôm nay ông Tạo phá lệ, về luôn.
Thằng Tế thấy bố nhăn nhó thì cười hề hề:
- Đám này, như con phải lấy bốn, năm triệu tiền cọc,
còn xin bồi dưỡng đêm nữa. Các cụ lành quá. Quên không dặn bố. Những đám nhà quan,
tuy không mỏi mồm nhưng kém thóc. Để cho bố đi một đám, rút kinh nghiệm.
Tuy tức thằng con đầy một bụng, nhưng ông Tạo thấy mở
mắt ra. “Đi ngày đàng, học một sàng
khôn”. Ru rú trong làng, cứ tưởng mình ghê gớm lắm.
Nhà ông Tạo, tính đến đời thằng Tế là ba đời làm nghề
thợ kèn, bây giờ người ta gọi văn minh hơn là nhạc hiếu. Từ xưa đến nay, nghề
này được coi là nghề làm phúc. Tuy thiên hạ chẳng trọng vọng gì, nhưng không có
không được. “Sống dầu đèn, chết kèn trống”
mà. Trước, cụ thân sinh ra ông làm nghề đóng gạch, làm cho hợp tác tính công
điểm, cuối vụ lấy thóc về, chứ không có tiền, mà tính cụ lại nghiện rượu. Vốn
biết kéo nhị, lại ới a được vài câu chèo, cụ rủ một ông bạn già biết đánh trống
chầu, cùng đi làm thợ kèn. Hai người một đôi, kẻ trống, người nhị, vài đoạn làn
thảm tự biên, tự diễn. Tối thì quay sang chèo đò, kể Thập ân. Vừa mới qua chiến
tranh, việc tang ma người ta chú trọng hơn. Hồi ấy cả huyện có hai nhóm thợ
kèn, nên ông được đón đi thường xuyên. Cứ có người nằm xuống là xe đạp đến tận
nhà đón rước. Ông Tạo học nghề thợ mộc, vì thấy nghề gạch của bố nặng nhọc quá. Sau khi ông cụ mất, nhu cầu
kèn trống lại nhiều, ông quyết định học theo nghề thợ kèn. Thực ra nghề thợ kèn
sống khá sung túc, vênh vang chẳng kém nghề nào. Dù có người coi thường hay nói
thợ kèn có tính vòi vĩnh, phải cố chiều chuộng cho xong ba ngày đám. Cho đến
khi thấy thằng Tế bỏ Trường văn hóa nghệ thuật, rủ mấy đứa bạn lập đội thợ kèn
thì ông Tạo giận quá.
- Cha tổ sư quân ngu. Đời ông, đời cha mày đi khóc
mướn cho thiên hạ chưa đủ hay sao?
Nó chẳng tự ái, nói luôn.
- Nghề này thì sao? Cũng đổ mồ hôi, sôi nước mắt chứ
đi trộm cắp, tham ô gì mà xấu hổ. Cứ kiếm tiền chân chính là được bố ạ. Nghề
thợ kèn có kém gì nghề thầy thuốc, nghề dạy học không? Xã hội cần mà.
Năm thằng thanh niên nhồng nhồng lập đội nhạc hiếu. Vì
chúng đều đã qua trường lớp nghệ thuật, nên tự phong là “nghệ sĩ nhân dân”.
Thời buổi khán giả ghẻ lạnh với sân khấu, tuồng chèo, các nghệ sĩ rách như tổ
đỉa. Có một cách để không phí phạm tài
năng là đi khóc mướn, phục vụ nhân dân và nuôi thân. Ông Tạo nghĩ. “Thấy người
cưỡi ngựa, đánh bò gãy chân”. Ai thuê lũ nhãi ranh kèn trống cho cha mẹ người
ta cơ chứ? Nhưng sau này, thấy chúng nó làm được, lại làm hay hơn cánh già mới
chết. Đi đâu cũng thấy người ta khen đội nhạc hiếu “ông Tế” đàn hay, hát ngọt,
ca có bài bản, lại thông thạo các thủ tục ma chay, cúng lễ. Bọn thằng Tế tung
hoành khắp nơi, sang cả huyện khác, nhưng để riêng địa bàn ba xã gần nhà cho
bố, không xâm phạm tới.
Nghe tiếng thằng con nổi như cồn, ông Tạo nửa tin, nửa
ngờ. Nhân có đám ma vợ ông phó Cối trên làng Thúy, lấy cớ ngày xưa có quen
biết, nên ông Tạo mang thẻ nhang, chai rượu đến viếng. Từ xa, tiếng kèn trống
rộn rã phát ra từ loa phóng thanh. Bọn này nhờ cả đài truyền thanh xã ư? Nghe nhịp
phách thấy chúng chơi cũng vững tay. Vào đám, ông Tạo thấy thấy thằng Tế chững
chạc quần áo đen, khăn xếp đen, thắt lưng đỏ, đang hướng dẫn người nhà đám làm
lễ. Bốn cậu kia cũng đồng phục đen. Bộ nhạc của chúng cũng chẳng có gì mới, vẫn
đàn bầu, nhị, kèn, trống, thanh la. Chỉ hơn đội già cặp loa thùng dựng cạnh cột
hiên, loa chiếu bóng treo trên cành xoan ngoài vườn. Thằng Tế chụm chân, vòng
tay ngang trán, miệng xuýt xoa, trầm bổng:
- Duy! Kỷ Mão niên, thập nhị nguyệt, nhị thập tam
nhật. Gia chủ là Phạm Thị Bạch, thất
thập ngũ tuế, lâm chung mệnh một...toàn gia cúc cung bái...i...i. Bái...i...i.
Con, dâu rể, họ hàng nhà ông phó Cối hàng lối thứ tự,
sì sụp lạy theo tiếng hô của thằng Tế. Lúc đầu ông Tạo giả vờ ngồi uống nước,
không thèm để ý. Chúng nó chẳng qua nhờ có tăng âm, loa đài, nên hơn ông tiếng
đàn bầu, còn thì nhang nhác như nhau cả. Một lúc sau, ông mới thấy hai thằng
đàn bầu và nhị thuộc tay cự phách. Tiếng nhị và đàn quyện vào nhau, nâng đỡ,
đưa đẩy câu hát, hòa nhịp với trống phách làm nền cho những câu ca của thằng
Tế. Tiếng nhạc, lời ca não nề đưa người nghe vào mê cung của tình sinh ly tử
biệt. Những bài dân ca ba miền được cải biên, tùy từng hoàn cảnh mà đặt lời mới,
thành ra nghe khóc đám ma mà như nghe hát. Bọn ranh sắp biến đám ma thành đám
hội đây. Thấy bố vào đặt lễ, thằng Tế không dám chào. Nó liếc tờ năm nghìn ông
đặt vào đĩa, cất giọng ngân nga:
- Cụ vong ơi! Sách có câu, bán anh em xa, mua láng
giềng gần. Xóm làng nào khác người thân trong nhà. Cụ Tạo đây tình nghĩa lân
gia, chút tình, chút lễ gọi là nhớ đến nhau. Chứ tình nghĩa mà láng i ì
giềng...Chứ cụ vong ơi...i...i.
Tiếng đàn, nhị bắt nhịp, nâng câu hát lên, lâng lâng
khúc thánh ca đưa người quá cố bay tận cầu vồng bảy sắc. Lời ca kể về tình làng
nghĩa xóm khi tắt lửa tối đèn có nhau. Bát gạo, hạt muối hay lúc trái gió trở
trời cùng chia sẻ. Cầm nén nhang đứng trước di ảnh người chết, dù chẳng thân
thiết gì, mà ông Tạo nước mắt rưng rưng. Đéo mẹ cái thằng Tế! Nó hát hay quá.
Mình lạc hậu mất rồi. Đám nào cũng hát vo, hai tay chắp trước bụng, rướn mãi
lên một câu khàn khàn “ối cụ ơi! Ông, bà đây là tình cảm láng giềng, Nghe tin
cụ mất nay tới nhà viếng thăm”. Ai đến cũng thế. Đoàn nào cũng thế. Cứ thay mấy
câu vào cho hợp cảnh mà ca. Gõ trống tung, tung, kết thúc, rồi cất ngay tờ tiền
vào hòm. Thằng Tế không bắt chước bố. Nó cứ thảnh thơi thơi hát, thảnh thơi
khóc. Đĩa tiền dưới chân đầy dần lên, những tờ tiền mệnh giá to còn cố ý xếp
lên trên, người đến viếng sau nhìn vào mà liệu cư xử cho lịch sự. Khách viếng
ông phó Cối chẳng ai muốn về, ở lại nghe cánh thằng Tế hát. Lúc thưa người viếng,
mấy bà hàng xóm còn vào đặt thêm tiền nhờ nó than thở vài lời. Mãi khuya, đám
ma còn đông người. Thằng Tế xoay sang
màn “chèo đò”. Trò này hơi mệt, nhưng khéo hát, giỏi tán thì lôi được nhiều
người vào cuộc, cũng có nghĩa là “moi” được nhiều tiền. Thằng Tế bắt đầu chèo
đò đưa cụ vong sang Tây Trúc. Điệu bộ khéo, lời hát càng hay. Các tình huống
cần tiền liên tiếp xảy ra, khi thì thuyền cụ vong mắc cạn, cần mua dây kéo, nhờ
mỗi người một tay. Khi thì cụ bị kẻ gian móc ví (cụ bảo dưới âm kẻ cắp cũng
nhan nhản) không có tiền đi đò, con cháu tranh nhau trả giúp. Mọi người bị lôi cuốn vào cuộc chèo đò vui vẻ, tự nguyện
và dĩ nhiên đĩa tiền cứ vơi lại đầy. Mỗi đám thế này, đội thằng Tế thu nhập gấp
bốn, năm lần đội già. Ông Tạo lắc đầu. “Hậu
sinh khả úy”.
Đội nhạc hiếu của bọn thằng Tế, có bảng hiệu hẳn hoi.
Bức trướng treo trước linh cữu in chiếc đỉnh đồng nghi ngút khói hương và dòng
chữ ĐỘI NHẠC HIẾU LÀNG HOA, dưới cùng ghi số điện thoại di động. Đội viên đều
có thẻ ghi rõ chức danh nhạc công, dán ảnh, treo trước ngực. Đội này có ngày
chạy ba đám, cũng mệt phờ. Như đã nói, không bao giờ chúng phục vụ trong xã, mà
để cho đội ông Tạo, có khi còn nhường cửa cho nữa. Ví dụ như đám ma ngoài thị
xã vừa rồi.
Lần này, Tế nhờ bố đi giúp đám ma bên làng Vĩnh. Bà cụ
bên ấy hưởng thọ hơn tám mươi, nhưng đội làng Hoa mắc hai đám ngoài thị xã. Đã
dính một đám ê hề ở nhà ông quan tỉnh, mấy ông già còn chết đắng trong bụng,
giờ nó lại nhờ đi đám mẹ Chủ tịch xã. Thôi, tao không dây với nhà quan. Thằng
Tế gắt bố:
- Sao bố hay chấp thế! Mỗi nơi mỗi khác chứ. Có phải
nhà nào cũng giống nhau đâu. Chẳng qua thấy các ông cả tháng nay chưa có đám
nào, con nhường cho. Chứ không, gọi đội kèn làng Mai, con còn được phần trăm
nữa cơ.
Nó nói thế, thì mình cũng nên đi. Với lại cũng thương
ba ông bạn già, cả tháng nay ráo miệng, nhẵn túi. Thằng Tế dặn. Bà cụ bên ấy,
lúc sống khổ lắm, con cháu đối xử bạc bẽo. Nay con trai mới lên Chủ tịch xã,
bày trò làm ma to che mắt thiên hạ. Mấy ông làm đám ấy, nên giữ mồm, giữ miệng.
Máu nóng giần giật trên đầu ông Tạo. Mẹ mày chứ. Trứng khôn hơn vịt. Ông thì
đấm...vào. Nghĩ đến mấy ông bạn, lại nuốt cơn giận vào bụng.
Pha chậu nước nóng, ông lau qua người. Mỗi khi đi làm
đám ông thường tắm rửa sạch sẽ. Hôm nay thấy hơi mệt, ông không dám dầm nước.
Mấy ông bạn già nghe tin báo có đám, chỉ ít phút sau đã tề tựu đông đủ tại nhà
ông trùm, hí hửng như được đi ăn cỗ. Trong khi ông Tạo lục đục thu xếp hòm
xiểng, lão Cường, lão Lạc lôi sáo nhị ra so dây ò ứ...ò ứ. Toe! toe! Lão Lạc
phởn chí vừa kéo nhị vừa hát. “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào. Tình
mẹ tha thiết như giòng suối hiền ngọt ngào. Thương con, thao thức bao đêm
trường... Được không các ông? Tôi mới học lỏm cánh thằng Tề đấy”. Ông Tạo quay
ra, trừng mắt:
- Từ trước tới nay, bài bản thế nào, yêu cầu các ông
cứ đi như thế cho tôi nhờ, không phải tập tành theo lũ ranh ấy.
Đám ma mẹ Chủ tịch xã Vĩnh làm khá to. Ông con trai dự
định kèn trống cho mẹ ba ngày liền. Trong nhà chưa làm lễ phát tang, khách
viếng đã túm tụm ngoài sân. Những đĩa thanh long đỏ tía, táo hồng mịn, những
chiếc phong bì viền xanh đỏ, bó nhang gác bên trên. Tất cả đã sẵn sàng. Bốn ông
già phấn chấn vào cuộc, hai chiếc dùi gỗ vung tít, như múa trên mặt trống. Lão
Cường nhúng lưỡi kèn vào bát nước, thổi lanh lảnh hồi kèn trận. Trống cái đệm
nhịp “thùng, thùng, thùng”.
Cũng chẳng đám nào ồn ào, lộn xộn như đám này. Con
cháu tranh nhau khóc, kêu gào kể lể. Vợ Chủ tịch xã là con dâu trưởng, lăn lộn bên linh cữu. “Ối mẹ ơi...từ nay mà đi a....con không còn
được bưng cơm...rót nước cho mẹ a...a”. Con gái thứ lắc lư lên đồng. “ Mẻ ơi là mẻ ơi! Có ai thấu nỗi khổ của mẻ
không...mẻ ơi...”. Ông chủ tịch xã áo xô, mũ vải quỳ trước quan tài, khóc
tồ tồ. “Con chưa báo hiếu được gì ...mà
mẹ vội ra đi...mẹ ơi”. Đám cháu nội, ngoại mắt nhắm tít, khóc i ỉ. “Cháu thương bà quá...bà ơi”. Dàn hợp ca
đủ bè, đủ giọng kia át cả tiếng kèn trống. Ông Tạo vẫy tay ra hiệu cho đội nhạc
chơi nhỏ bớt, dưỡng sức. Giọng đàn bà chua loét đằng sau lưng ông.
- Dào ôi! Đạo đức giả! Lúc bà cụ ốm, bỏ mặc nằm một
mình dưới bếp, có ai thèm ngó tới.
Khách viếng đầu tiên là một đôi đũa lệch. Chồng lùn
tịt, bảnh bao, ví mề gà trước bụng. Vợ cao lớn phốp pháp, son phấn thơm lừng,
sợi dây chuyền vàng to tổ bố, trĩu cổ. Chị ta, hai tay đặt tờ năm nghìn vào
đĩa, nói với ông Tạo:
- Vợ chồng con bên nhà nghỉ Hoa Sữa, chỗ thân tình với
chủ nhà. Nhờ ông ca lâu lâu một tí.
Ông Tạo thấy khỏe hẳn ra. Hai tay chắp trước bụng,
chân trước, chân sau, cất giọng:
- Ới cụ vong ơi! Anh chị Thơ Hoa đây là chỗ thân
tình...
Một tay trung niên, tóc húi cua, vẻ mặt lấc cấc, khệ
nệ bưng một đĩa to những rượu, táo, phong bì, nhang thơm. Hắn bước cả giày lên
chiếc chiếu làm lễ, thả vào đĩa tờ mười nghìn, lom khom chắp tay trước ngực,
mắt liếc ông Chủ tịch đứng bên linh cữu. Nhìn tờ giấy ghi sẵn, thấy hắn tên Phi
Hổ, Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Sơn Lâm. Tuy hắn không rỉ tai ông Tạo
về mối quan hệ với chủ nhà, ông vẫn ca khá lâu. Tiền nào của nấy mà. Lác đác số
bà con quanh xóm vào viếng bà cụ. Họ là những cụ Quảng, bà Lực, chị Nhiệm...thường
ngày hay chạy qua, chạy lại thăm nom bà cụ lúc bệnh hoạn. Họ đặt vào đĩa tờ năm
trăm đồng, hoặc hai người viếng chung thì đặt một nghìn, lễ viếng là thẻ nhang,
chai rượu hoặc tờ bạc hai chục nghìn. Ông Tạo đều ca có đầu có cuối, không
thiên vị, nhưng không lâu quá như những ngườì đặt nhiều tiền.
Khách quan hệ công tác khá đông. Rậm rịch nhất là đoàn
khách viếng của ủy ban huyện và các xã lân cận. Mấy chục con người xếp hàng,
lời chia buồn, lời đáp lễ dài lượt thượt. Đội nhạc hiếu tranh thủ ngồi nghỉ. Về
đêm, đám khách sộp ở đâu chui ra nhiều thế. Toàn những người béo tốt, rủng rỉnh
tiền bạc. Từ chủ tiệm cầm đồ đến chủ quán karaoke, cả con mụ Sa cho vay nặng
lãi.
Sang ngày thứ hai, ông Tạo thấy trong người váng vất,
khó chịu. Tại đám này bở, ông ham tiền cố mãi. Thằng Tế không lừa ông. Nhìn
lượng tiền trong hòm gỗ, ước tính cũng hai, ba triệu bạc rồi. Còn chưa kể tiền
cọc một triệu mà ông cẩn thận giao kèo trước. Khách vẫn đông, toàn những kẻ máu
mặt. Xem ra đám ma mẹ Chủ tịch xã nhiều khách sộp hơn đám nhà phó Chủ tịch
tỉnh. Đám ngoài thị xã, chỉ lắm quan chức, nhiều xe to, xe nhỏ, chứ còn lâu mới
bằng ở đây. Cứ xem khách viếng với những phong bì dày cộm thế kia, sau khi thắp
nhang cho bà mẹ còn quay sang vái ông con một vái, mới thấy Chủ tịch xã quan
trọng hơn nhiều.
Vãn khách, con gái thứ của bà cụ lê đến chỗ đội nhạc,
áo xô lấm láp, tóc tai rũ rượi. Chị ta cung kính đặt tờ hai nghìn vào đĩa, mếu
máo.
- Ngày mai đưa bà cháu ra đồng rồi. Nhờ các ông than
khóc vài lời giúp cháu.
Ông Tạo lại cất giọng khàn đặc, mệt mỏi:
- Thưa cụ vong! Đêm gần tàn, ngày sắp rạng. Phút chia
li ngàn năm vĩnh viễn tới gần, con gái thứ của cụ nhờ chúng tôi khẩu kèn, tiếng
trống than thở với mẹ vài lời. Ới mẹ ơi! Hôm qua mẹ còn nằm chiếu nằm giường.
Đến mai mẹ gối đất nằm sương một mình...
Có tiếng quát từ sau quan tài.
- Thôi ngay! Khuya rồi, không than khóc gì nữa.
Nhìn lên, thấy ông Chủ tịch xã mặt hầm hầm, đang chỉ
tay vào mặt em gái. Ông Tạo khàn khàn:
- Chưa đến giờ nghỉ ông ạ. Để tôi khóc cho cụ mấy lời
đã.
- Tôi nói thôi là thôi! Ông đến khóc mướn chứ không
phải đến chọc ngoáy chuyện nhà người ta, nhá.
Chợt nhớ tới lời dặn của con trai, ông Tạo biết mình
đã lỡ lời, nên cố phân bua.
- Chuyện gia chủ, chúng tôi đâu dám xen vào, chỉ làm
đúng hợp đồng thôi mà.
- Thợ kèn các ông bao giờ chẳng lắm chuyện. Từ hôm
qua, đẫy hầu bao rồi thì nghỉ đã. Tham để chết à?
Ông Tạo nghe lời đay nghiến, máu dồn cả lên mặt, mồ
hôi vã như tắm. Đầu ông quay chong chóng, gục xuống không biết gì nữa.
Thằng Tế mừng rỡ khi thấy bố cựa mình, mở mắt.
- Bố tỉnh rồi à! Làm con lo quá!
- Anh đưa bố về lúc nào? Đám bên Vĩnh xong chưa?
- Con cử một cậu sang bên ấy rồi. Con đã dặn, có câu
gối đất nằm sương, bố cứ hát mãi. Bà cụ bên ấy toàn nằm chõng tre dưới bếp. Bố
hát thế bằng chửi nó.
Đầu ông lại đau nhức, cứ tưng tưng như dùi trống gõ
vào. Nhớ lại lời thóa mạ của chủ nhà,
ngực ông nhói đau.
- Xong đám này, bố nghỉ. Nếu có bác nào muốn theo, mày
cho bố gửi nhá. Nghề khóc mướn, tủi nhục lắm con ạ.
Thằng Tế cười nhạt.
- Biết thế! Nhưng nghề nào cũng vậy, phải lựa bố ạ.
Ông Tạo nhắm mắt, không nói gì. Bên Vĩnh, hình như đám
tang chưa nghỉ, văng vẳng tiếng trống tinh...tòm...tinh...tòm. Chập chờn mê
tỉnh, ông thấy mình lơ lửng giữa chín tầng mây, xung quanh là những bộ mặt quen
quen, đàn ông, đàn bà, già, trẻ, xúm xít vây quanh, ca hát vui vẻ. Nhìn kỹ, họ
bước ra từ những di ảnh người quá cố từng được ông kèn trống tiễn đưa.
P.P.Q
7. GÓC TRỜI ĐỎ
NHỮNG DẤU SON
Chị lõm bõm giữa mộng mị đen kịt. Trong mơ, bỗng loé
lên màu đỏ như lửa của những chùm hoa gạo. Bên trái la núi Nghĩa Lĩnh sừng
sững, thấp thoáng mái đền rêu phong cùng màu lá xanh thẳm, màu mây mờ bạc. Góc
trời bên phải là hai cây gạo xù xì u bướu, khẳng khiu những cánh tay. Phía ấy
rực màu hoa gạo, trông cứ như nắm than đỏ ném tung lên trời. Đã có lần chị ví
von như thế, nhưng anh lại nói nó giống như những vệt son môi các cô gái hôn
lên trời xanh. Chị cãi làm gì có nhiều nụ hôn như thế? Anh ngờ nghệch cười.
“Chẳng thế ư! Lúc mới yêu người ta hôn nhau ghê lắm, hôn đến tối tăm mặt mũi ấy
chứ”. Chị hỏi anh ngay bây giờ có ước mong gì? “Muốn hôn em một cái! Đôi môi em
giống như bông hoa gạo kia kìa”. “Chỉ muốn hôn thôi sao?”. Anh gật đầu. Ừ chỉ
muốn hôn thôi! Cặp môi ấy mềm và ấm, không hôi khét mùi thuốc lá, không chua
mùi rượu bia. Anh gượng nhẹ, như dò tìm cảm giác từ chị. Thân thể chị nóng dần
lên. Chị muốn nuốt chửng đầu lưỡi anh, nhưng bị đẩy ra phũ phàng. “Ta về thôi
em! Trời chiều lạnh lắm”.
Đêm đặc quánh, lạnh và lặng ngắt. Tiếng chuông đồng hồ
trên tường gõ boong boong như tiếng búa trong phòng kín. Bóng tối ngôi nhà ba
tầng lèn chặt chị xuống mặt ghế salon da dưới phòng khách. Chồng chị vừa về lúc
bảy giờ tối, ngột ngạt mùi rượu và mùi thịt chó. Từ trẻ ông đã nghiện thịt chó,
cả tuần ngày nào cũng thịt chó mà không ngán. Mỗi lần say rượu về, thường ông
lăn ngay vào giường, đổ ập lên người chị. Chị phải cố quay mặt sang một bên để
tránh cái mùi nồng nã tổng hộ của thịt chó, mắm tôm, riềng mẻ và lá mơ hôi. Đêm
qua về, ông không đổ ập lên chị mà loạng choạng ném lên mặt, lên ngực chị một
xấp ảnh. “Hãy nhìn lại đi! Đồ đĩ! Cô thật trơ trẽn, không còn biết mình là ai”.
Một tấm ảnh rơi dưới đất. Chị nhận ra đó là tấm ảnh chị chụp chung với anh ở
Khu khảo cổ làng Đá. Chị ngồi hơi ngả đầu vào vai anh, e thẹn như cô gái mới
lớn, miệng cười dịu dàng. Anh ngồi dạng chân, hai tay khoanh trên gối, gù gù
lưng gấu, bộ mặt xanh rì râu quai nón, ánh mắt trầm ngâm, xa xôi.
“Ông lấy những tấm ảnh này ở đâu?”. “Thì sao! Tưởng
giấu trong cặp số mà tao không biết à”. “Tôi đi công tác, chụp ảnh chung với
mọi người là chuyện thường. Chẳng lẽ bây giờ ông mới biết!”. “Tao chỉ hỏi trong
số ảnh này, tại sao mày chụp với thằng người rừng kia những sáu tấm? Còn đây
nữa, thư của nó gửi về có làm cả thơ tình cho cô đấy. Chứng cớ rành rành…”. Chị
ngồi hẳn lên. “Ông có biết lục lọi tư trang, thư tín của người khác là phạm
pháp không?”. Ông chộp chiếc chiếc ly thuỷ tinh dùng uống rượu vang, ném choang
vào tường. “Gái đĩ già mồm! Trong nhà này tao là lụật pháp. HIểu không? Hơn
chục năm lấy chồng không chịu đẻ đái gì, nay đổ đốn đi bồ bịch lăng nhăng.
Không biết xấu hổ”.
Chị giận tím tái cả người. Chồng chị, một có học thức,
đạo mạo đang nói với chị những lời lẽ của dân chợ búa. Hồi mới lấy ông, người
vợ cả đã li dị có gặp chị một lần và nói: “Chẳng cao sang quyền quý gì đâu cô
ạ! Nhà ấy chỉ ai vô phúc mới vào ở được thôi”. Lúc ấy chị cho rằng mình bị bà
ta sỉ nhục vì ghen tuông. Giờ ngẫm lại, thấy hai người bỏ nhau không phải vì bà
vợ chỉ sinh toàn con gái.
Năm ngoái, chị đi đền Hùng vào ngày mười sáu tháng
giêng, theo lời rủ rê của cô bạn thân tên là Thắm. Phải mất ba ngày Thắm mới
thuyết phục được chị. Bà lạc hậu vừa vừa thôi. Đi đền Hùng ngày chính Hội, chỉ
có xem người với chen chúc toát mồ hôi. Muốn cầu tài, cầu lộc nên đi vào tháng
Giêng. Vừa linh ứng, vừa ít người. Chị xuôi lòng, bởi sâu thẳm tâm linh có một
lời nguyện ước trời phật thương chị mà cho một đứa con. Từ ngày lấy chồng,
không sinh nở gì, chị cảm thấy mình có tội. Cũng tại những lần gần gũi chồng,
chị bị dị ứng bởi mùi thịt chó. Hoặc cũng có thể chồng chị đã già. Ông hơn chị
hai chục tuổi, cả một khoảng cách của hai thế hệ và chị chấp nhận như một cách
tiến thân.
Thắm rủ chị ra chợ chim, mua hẳn một lồng hơn ba chục
con chim sẻ nâu. Lũ chim thay vì bị vặt lông cho vào chảo rán làm mồi nhắm
rượu, sẽ được thả phóng sinh ở Đền Hùng.
Chiếc xe khách chưa dừng hẳn, đã có năm, sáu chiếc xe
ôm ầm ầm lao đến. Hai chị em bước xuống ngã ba quốc lộ 2 với lỉnh kỉnh ba lô, túi
xách, lồng chim. “Đi xe anh hai em ơi. Xe mới tinh đấy”. “Hai chị đi đâu em chở
cho. Giá hữu nghị thôi”. Những chiếc xe vây tròn hai người với những lời mời
chào ồn ào. Thắm kêu lên: “Đi đâu thì chúng tôi cũng chỉ thuê hai chiếc xe. Các
anh vây kín thế này biết làm sao?”. Bỗng có tiếng đàn ông trầm đục: “Đi đâu thì
cũng để người ta nghỉ ngơi, hoàn hồn đã chứ. Giãn bớt ra đi!”. Hướng theo tiếng
nói, chị nhìn thấy chiếc xe Win 100 màu đỏ dựng bên gốc sà cừ tán rộng. Trên
yên xe, một người đàn ông khó đoán tuổi ngồi vắt vẻo với bộ quần áo kệch cỡm,
quần lính và áo chàm thổ cẩm. Tướng mạo to lớn cùng bộ râu quai nón, cặp mắt
xếch của anh ta có vẻ như làm cánh xe ôm nể nang. Nhét cuốn sách đang đọc dở
vào túi quần, anh ta xuống xe, bước lại chỗ hai người. “Hai cô đi đâu? Để tôi
bảo anh em họ chở đi”. “Từ đây vào Đền Hùng bao nhiêu tiền hở anh?”. Thắm mạnh
dạn mở miệng. “Đền Hùng đây rồi. Cách ba cây số. Các cô trả họ ba nghìn một
người”.
Phía xa lại có một chiếc xe khách dừng bánh. Đám xe ôm
lại lao ầm ầm về phía ấy, còn trơ lại hai chị em và anh chàng râu quai nón.
“Thôi hai cô lên cả đây tôi chở đi. Đường gần chở ba cũng được”. Chị ngồi giữa,
một tay bíu hờ vào lưng áo chàm, tay kia xách lồng chim. Thắm ngồi sau lỉnh kỉnh
với mớ túi xách. Tấm lưng rộng che khuất tầm nhìn của chị. Chị chỉ có thể nhìn
sang hai bên đường, thấy những hàng cây cọ thấp, những cột đèn đường hình tháp
vuông chạy vun vút về phía sau. Xe phanh gấp, cả hai chúi về phía trơưc. Chị ôm
chòang tấm lưng rộng, suýt văng mất cả lồng chim. Anh chàng xe ôm cười hề hề:
“Xin quý khách một cái ôm làm kỷ niệm. Xe ôm mà!”. Ánh mắt anh chàng thán phục
nhìn thân hình thon thả của chị trong bộ đồ bò mốc, cặp má mịn màng loáng
thoáng lông tơ. Chị trả anh cả tờ mười nghìn, nói không phải trả lại, nhưng anh
ta kiên quyết tìm bới trong túi quần ra mấy tờ bạc hai nghìn. Trước khi quay
về, anh dặn hai người nên mua mấy bó nhang từ dưới cổng, lên đền nào thì thắp
hương đền ấy, đừng nhận lời nghỉ lại quán nào nếu không muốn bị đám thanh,
thiếu niên bám theo lẵng nhẵng làm phiền. Vừa dứt lời đã thấy mấy đứa con gái
chạy tới. “Cô ơi! Tí nữa xuống đền vào quán cháu nghỉ ngơi đã nhé!”. “Hai chị
ơi! Quán em ngay cổng đền Giếng, các chị vào mua quà lưu niệm không?”. Anh
chàng râu quai nón dựng xe, gửi vào bãi. “Thôi, để tôi đưa hai cô lên đền”. Nói
xong anh ta túm quai ba lô hất lên vai, tay kia xách lồng chim sẻ. Chị còn loay
hoay chọn vị trí chụp ảnh thì anh ta đã sải bước lên núi, hai chị em phải chạy
theo mới kịp. Nhìn thấy hai ông hộ pháp cầm đao đứng gác cổng đền, chị phì cười
vì thấy giống anh chàng rậm râu. Chị hỏi Thắm : “Bốn chữ Cao sơn cảnh hành
nghĩa là gì nhỉ?”. Thắm bảo, về rửa ảnh, đem tra từ điển thì khắc biết. Anh
chàng xe ôm đang đi bỗng quay lại. “Mấy chữ này người ta tranh cãi nhau mãi
trên báo rồi. Người thì bảo là Cao Sơn Cảnh Hành. Người thì đọc là Cao Sơn Cảnh
Hạnh, lại có người đọc là Cao Cảnh Hành Sơn. Loạn cả lên”. Chị mỉm cười: “Theo
anh thì nên đọc thế nào?”. Anh xoa cằm: “ Bài Xa Hạt trong Kinh Thi xưa có câu
Cao Sơn ngưỡng chỉ. Cảnh hành hành chỉ. Đền Hùng tuy có từ lâu, nhưng cũng mới
trùng tu vào đời vua Gia Long. Hoành phi, câu đối toàn những quan đại thần, học
sĩ, tiến sĩ viết cả. Họ cũng trích từ trong Kinh Thi ra mà thôi”. Chị đứng lại
ngang dốc: “Anh làm nghề gì?”. “Như hai cô biết đấy. Xe ôm!”. Hai chị em từ đó
lặng lẽ leo dốc, không hỏi han gì nữa. Họ thả chim trên sân đền Thượng. Lũ chim
sẻ nháo nhác suốt mấy trăm cây số, ngần ngại đứng trước cửa lồng một lúc rồi
mới tung mình bay vào những tán lá xung quanh. Tiếng chim lích chích xa dần
trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ.
Là một cán bộ ngành khảo cổ học, chị thường hoá thân
vào trong những cổ vật để tìm tiếng nói riêng của trầm tích. Đền Hùng cũng là
một mảng trầm tích lớn lịch sử văn hoá, nhưng hôm nay chị là người đi cầu lộc
đầu năm. Đền Hùng ở góc độ truyền thuyết lịch sử đã được minh chứng, vậy mà
những nhận xét của anh chàng xe ôm kia làm chị băn khoăn. Thắm cũng đang được
anh ta chia ssẻ suy nghĩ bên cột đá thề. “Theo truyền thuyết thì Thục Phán dựng
cột đá này thề gìn giữ giang sơn của vua Hùng, khi được nhường ngôi cho. Tôi
thì nghĩ khác. Có thể đây là vật linh của tín nghĩ phồn thực, như là linhga ở
đền thờ Chăm, Mỹ Sơn. Người Việt cổ có tục thờ sinh thực khí. Làng Gáp cạnh đây
còn duy trì lễ hội Trò Trám mà lễ vật là hai bộ phận sinh dục của nam và nữ”.
Chị liếc nhìn cột đá tròn múp, thẳng lên trời, hơi đỏ mặt khi tưởng tượng đó là
vật giống đầy sức mạnh của nam giới. Cái anh chàng râu rậm này. Thực ra anh ta
là ai? Làm nghề gì? Hay anh ta là một kẻ tâm thần, nói năng những điều chị chưa
đọc trong sách vở. Mãi đến lúc xuống núi, chị mới dám xin lỗi rồi hỏi trước đây
anh làm gì? Có thể nói qua về bản thân được không? Anh gãi đầu: “Các cô cũng
quan tâm tới tôi ghê. Thế ra mình cũng quan trọng thật. Tôi là Đinh Văn Thực,
người Mường Yên Lập. Đi bộ đội ba năm hồi chiến tranh biên giới phía Bắc. Sau
chuyển ngành làm bảo vệ cho cơ quan ngành văn hoá. Bây giờ thì làm xe ôm.
Hết!”.
Những dòng trích ngang ít ỏi của Thực, làm chị luôn
nghĩ về anh, người có vẻ ngoài bặm trợn. Năm nay khi nhận lời tham gia khai
quật mấy ngôi mộ cổ ở làng Đá, cách đền Hùng khoảng chục cây số, chị đã dừng
lại ở Ngã ba cổng đền tìm anh. Vẫn đang chúi đầu vào cuốn sách, anh vui mừng
khi nhận ra chị. “A! Chào cô bé. Thế ra còn nhớ tới tôi đấy. Cô Thắm đâu?”. Chị
thấy trong lòng thật ấm áp. “Thắm không đi vì việc này không thuộc chuyên ngành
của nó. Còn anh đừng gọi Hằng là cô bé nữa. Tôi lớn hơn anh một tuổi đấy!”.
“Trời ạ! Thật không? Sao trông cô…à trông chị trẻ thế?”. Chị thông báo đợt công
tác này kéo dài cả tháng. Hy vọng sẽ được anh làm hướng dẫn viên và…phu khuân
vác. Anh giơ cả hai tay lên trời. “Xin phục vụ vô điều kiện”. Thực bỏ chỗ ngồi
đón khách, đi xe máy theo chị lên làng Đá. Không biết bằng cách nào, anh thuyết
phục được ông trưởng đoàn cho làm lao động hợp đồng ngày, với mức phụ cấp 15
nghìn một ngày công, cơm nước tự lo lấy. Công việc là phục vụ đoàn khảo cổ
ngoài hiện trường, tối về nghỉ. Sau này trở nên thân thiết, anh tâm sự với chị
rằng chỉ có kẻ thần kinh mới bỏ nghề xe ôm đi làm lao công lấy 15 nghìn một
ngày. Anh vốn cũng ham mê nghiên cứu văn hoá dân gian, nhất là những gì có dính
dáng đến văn hoá Mường. Chính cũng vì tính tò mò hay nhúng mũi vào công việc
nghiên cứu của ông này, bà kia mà mất chân bảo vệ. Nhân dịp này, Thực muốn tìm
hiểu thêm về những ngôi mội cổ hai nghìn năm tuổi. Lý do nữa là anh muốn đơực
gần chị. Từ lần gặp đầu tiên, anh ngưỡng mộ phong thái và sắc đẹp của chị như
ngưỡng mộ kỳ công của tạo hoá.
Hiện trường khu khai quật rộng cả ngàn mét vuông.
Ngoài số nhân công người địa phương được thuê đào đất, còn có anh hộ pháp râu
quai nón, áo chàm chuyên khuân vác đồ đạc và gánh nước sạch cho đoàn. Anh làm
việc chăm chỉ, luôn ghé vào mọi chỗ xem mọi người làm việc, bàn bạc thảo luận.
Cũng có lúc anh đứng ngẩn ra nhìn dáng chị nhỏ bé gọn gàng, với chiếc khăn lụa
buộc ngang trán, bàn tay thon thả mân mê những cổ vật như cô bé say mê búp bê
mới. Hai người có nhiều thời gian bên nhau, hiểu nhau thêm và cùng bàn bạc
những vân đề văn hoá cổ. Có lần làm như vô tình chị hỏi: “Nhà anh Thực ở đâu.
Sao không thấy mời tôi về chơi? Hay ngại vợ ghen?”. Anh cười xoà: “Có ai ghen
cho thì tốt. Tôi có cháu gái 7 tuổi, nhưng nó theo mẹ lên Lạng Sơn ba năm nay
rồi”. Chị về thăm nhà anh nhân một ngày nghỉ. Nhà anh ba gian lợp lá cọ, ở sâu
trong xóm. Ngôi nhà nhỏ bé, xinh xinh như nhà của bảy chú lùn trong chuyện cổ
tích Nga. Ngả lưng trên chiếc võng đay, chị chắp tay trước ngực thốt lên. Tuyệt
quá! Cứ như trong cổ tích. Hàng rào cây duối xén phẳng bên cạnh giếng thơi có
cái cần múc nước bằng tre. Anh ra giếng, tránh những câu hỏi của chị về chuyện
vợ con. Cần giếng kêu kẽo kẹt. tiếng nước đổ oà xuống chậu thau như tiếng cười
trẻ con. Chị bước ra theo anh, với ao ước được dội lên đầu một gầu nước giếng.
“Nước giếng trung du ngọt mát lắm phải không? Dội cho Hằng một gầu đi”. Chị xoã
tóc, cúi đầu trước anh, vén áo hở ra cổ gáy trắng mịn. Làn nước chảy thấm qua
mái tóc dày, chảy xuống mặt mát lạnh. Chị le lưỡi nếm thử những giọt nước quanh
miệng, rồi cất tiếng cười khanh khách. “Anh Thực nhìn Hằng ghê thế?”. “Tài thật
đấy!”. “Hằng thấy nong nóng ở gáy mà”.
Có tiếng bước chân vội vã từ ngõ vào sân. “Chị thẽm về
đấy hử? Con cháu Lụa của bà đâu?”. Tiếng bà già như hụt hơi. Thực khẽ nói. “Bà
cụ tôi ra đồng về đấy. Không phải nhà con đâu bầm ạ. Đây là chị Hằng cán bộ nơi
con đang làm thuê đấy. Hôm nay nghỉ, con đưa chị ấy về thăm nhà”. Mặc cho nước
còn rớt tong tỏng, chị hất mái tóc về phía sau, mặt hồng đẫm nước. “Con chào
bác ạ!”. Trước mắt chị là bà cụ ngoại sáu mươi tuổi, thân hình cao lớn, da nâu
sạm, tóc như cước. Thoáng qua, chị thấy ngay Thực giống mẹ. Sau ánh mắt đầy
thất vọng của bà cụ, có nét sửng sốt. Lạy giời. Sao có người đẹp thế cơ chứ.
Con vợ thằng Thực đã đẹp, nhưng chỉ đáng xách dẹp cho cô này”. Bà thở dài hỏi
con trai: “Thế đã cơm nước gì cho khách chưa? Bầm lại tưởng mẹ con nó về”.
“Chúng con ăn rồi ạ!”. Anh quay sang giải thích với Hằng, rằng ở đây người ta
gọi những người đẻ con gái đầu lòng là anh thẽm, chị thẽm. Vợ chồng nhà nào
sinh con trai đầu lòng thì gọi là anh cu, chị cu. “Cũng là sự giữ gìn tiếng
Việt cổ phải không?”.
Đằng trước nhà Thực có hai cây cổ thụ khẳng khiu cành
nhánh, trơ trụi lá nhưng lại đầy hoa đỏ. Anh bảo chị đó là hoa gạo. Phải đến
tháng tư âm lịch hoa gạo mới rụng hết. “Hoa gạo rụng đất. Bà già cất chăn”. Câu
tục ngữ đó nói rằng khi hoa gạo rụng hết, thời tiết mới bắt đầu ấm lên, bước
sang mùa hè. Chị xuýt xoa. “Đẹp quá! Cứ như đám than đỏ hất tung lên trời”.
Đêm ấy bà cụ thật thà kể cho chị nghe về hoàn cảnh của Thực. Vợ anh đẹp nhất
mường trong, nhưng có với nhau một mặt con, cô không chịu nỗi cảnh nhà lá cơm
độn khi xã hội giàu lên nhanh chóng. Cô chê chồng không biết làm ra đồng tiền
dư dật, chỉ bổ tìm đủ thứ chữ nghĩa không mài ra gạo, tiền. Khi anh bị mất chân
bảo vệ cơ quan, cô vợ cũng đem con bỏ đi Lạng Sơn buôn bán. Nghe nói giờ cô
cũng chẳng giàu lên được, mà làm vợ bé hco một gã buôn hàng lậu tân Hà Nội lên.
“Chị chơi thân với cháu Thực, lúc nào khuyên hộ tôi đi tìm vợ con về. Đánh kẻ
chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại. tôi chết đi thì ai cơm nước, giặt giũ cho nó?
Với lại tôi thương con bé cháu lắm chị ạ. Bảy tuổi đầu mà mẹ tha như mèo tha
con, chẳng biết có được học hành gì không”.
Chị buồn và thương anh. Chị khuyên anh được gì khi
chính chị cũng đang chạy trốn gia đình. Chị ngày xưa có lẽ cũng nghĩ như vợ
Thực, cứ tưởng nơi giàu có, quyền chức là nơi mang đến cho mình hạnh phúc. Chị
là người hoài cổ nên chị thấy thương Thực, người đàn ông có những ước mơ giản
dị. Giờ chị quá sợ cái bộ mặt tròn xoe của ông chồng đầy quyền lực và tiền bạc.
Những ngày họ bên nhau qua đi nhanh. Chị chợt nhận ra
mình yêu anh. Những gì anh dành cho chị thật ít ỏi. Chị khuyên anh nên đi tìm
vợ con về. anh im lặng và chị thấy nỗi vui mừng loé lên, trong lòng thật đáng
xấu hổ. Bây giờ sự việc đã bị ông chồng già làm tung toé lên. Ông còn doạ chị,
sẽ cho tay chân tìm “thằng người rừng” cho nó một trận. Chị lo sợ cho anh. Anh
có tội gì khi trao cho chị một nụ hôn. Chỉ một nụ hôn thôi, nhưng bây giờ chị
muốn nói với anh, chị muốn vô cùng, có một đứa con dù trai hay gái. Chị dám
đánh đổi tất cả để có được đứa con.
Chị bước xuống ngã ba quen thuộc, không thấy anh ngồi
trên yên chiếc xe Win 100. Mấy người bạn xe ôm nói anh đi Lạng Sơn cả tháng nay
chưa về. Chị buồn, nhưng vẫn thuê xe vào thăm nhà anh. Không có ai ở nhà. Căn
nhà lá xào xạc lời chào hỏi. Phía ngoài kia, cây gạo còn sót lại một bông hoa
đỏ như đốm lửa. Đầy nuối tiếc.
8. HÀNG
XÓM
“Nhất cận
lân, nhì cận thân”, hàng xóm thân
thiết rồi mới tới người thân họ hàng. Câu này nghĩa hán, không biết có phải lai
lịch từ anh Tàu thâm nho? Tôi cũng có đọc câu tục ngữ trong sách. “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”.
Ngày xưa, ông bà mình còn “uyên thâm” hơn cả Tàu, dám bán anh em đi để mua láng
giềng. Vì trong khó khăn, hoạn nạn, hàng xóm láng giềng mới là người đầu tiên
cưu mang ta. Dân nhà quê chúng tôi, càng thấm thía chuyện ‘mua, bán” này.
Bên dưới nhà tôi, cách một bờ rào dứa là nhà ông
Quỳnh, cán bộ hưu trí. Trong xóm, bà con thường
gọi ông là Trạng Quỳnh, hay gọi tắt là lão Trạng, vì tính ông hay khoe,
cái gì cũng biết. Bên trên nhà tôi, cách một bờ rào tre là nhà Phúc Hồng, cặp
vợ chồng trẻ. Nhà hàng xóm này mới xuất hiện cách đây dăm năm, sau một đám cưới
tảo hôn, rồi được cha mẹ làm nhà cho ở riêng, chính quyền xã thì phạt hành
chính mấy trăm ngàn đồng. Tôi là bộ đội phục viên, về địa phương được phân công
chức Trưởng ban văn hóa- thông tin, do có tí chữ nghĩa và hoạt động văn thể từ
thời quân ngũ. Cái chức trưởng ban, nghe thì oai, nhưng thực chất là chân loong
toong giúp việc chho Ủy ban xã.
Cái họa hàng xóm của tôi thường bất ngờ, không mấy khi
biết trước mà tránh. Ví như buổi tối, sau chương trình thời sự của đài truyền
hình, tôi lui vào phòng xem lại tài liệu, hay viết lách một tí. Cửa sổ buồng
tôi mở ra, nhìn thẳng lên nhà thằng Phúc, cách một nương chè nhỏ. Năm ngày ba
trận, vợ chồng nó cãi chửi nhau ỏm tỏi. Bắt đầu từ việc thằng Phúc không cho vợ
là con Hồng sang nhà hàng xóm xem phim, đến việc con Hồng bắt được quả tang thư
chồng viết cho gái, bỏ quên trong túi quần. Tôi không làm được việc gì, khi
nghe thằng chồng bắt đầu cằn nhằn. Nó khôn lắm, chỉ chửi nho nhỏ cho vợ đủ
nghe, sợ hàng xóm biết thì nhục mặt. Nhưng con vợ lại làm vung thần tướng lên,
kêu khóc như trẻ trâu bị bạn ăn hiếp. “Nảo...nảo...Chê
ông thì dụ dỗ ông về đây làm gì? Nào ...nào...Bây giờ theo con đĩ nào thì theo,
ông đếch cần nữa nhá. Ông dí l...vào cái mặt dày kia nhá. Hu...hu...hu. Bố
ơi....”. Nghe tiếng con bé gọi bố, tôi vừa bực vừa buồn cười. Phụ nữ hai
mặt con rồi, khóc cũng không biết đường khóc. Lẽ ra nó phải biết kêu than như
bà vợ tôi. “Ối giời cao đất dày ơi. Có ai
khổ như tôi không hở giời...”. Đằng này cứ ngêu ngao nảo...nảo...như trẻ
con.
Nhà thằng Phúc mười anh chị em. Ngày xưa sinh đẻ vô
tội vạ, thế mà vẫn nuôi được. Chính bố tôi hồi còn sống, đã làm tặng bố thằng
Phúc một bài thơ về đàn con trứng gà, trứng vịt ấy. Bây giờ tôi vẫn thuộc.
Hoa- Hồng hai
gái đẹp xinh
Thanh- Nhàn-
Trí- Thức thông minh nhất đời
Kiên- Cường-
Hạnh- Phúc là mười
Năm dâu năm
rể vừa đôi mươi tròn.
Bài thơ được chép lại trên tờ giấy to, dán trên tường,
ai đến chơi cũng đọc, đến nỗi cả làng đều thuộc. Thằng Phúc học hết lớp chín
thì nghỉ. Dù bỏ học nhưng nó vẫn là người có học vấn cao nhất nhà. Năm mười sáu
tuổi, được bố gửi lên học nghề mộc, ở nhà người họ hàng tận Yên Bái. Học nghề
một thời gian, nó say mê con gái ông thợ cả. Đó là con Hồng, lớn hơn nó một
tuổi. Hồng có mái tóc dài, cái răng khểnh rất có duyên, gái miền núi da dẻ
trắng hồng nên ăn đứt mấy cô gái làng quê tôi. Trong năm người học trò ăn ở tại
nhà, con Hồng thích thằng Phúc nhất. Thằng này dáng điệu thư sinh, mồm miệng
tép nhảy, lúc nào cũng thủ thỉ, thù thì, con gái chết mê, chết mệt. Đi ra giếng
mài lưỡi bào, lỡ chạm phải bên ngực mây mẩy của con Hồng đang ngồi vo gạo,
thằng Phúc đỏ mặt xấu hổ, con bé kia chỉ nhoẻn miệng cười. Có lần mót tiểu,
thằng Phúc chạy vội vào buồng tắm sau bếp, gặp cái Hồng đang thay quần áo. Con
bé chỉ vòng tay lên che ngực, tủm tỉm cười. Thằng Phúc tịt đái, chạy vội ra,
đầu va vào tường nổ đom đóm mắt. Tấm thân trắng ngần của con Hồng làm thằng
Phúc tơ tưởng hàng tháng trời. Sau chẳng biết chúng lần mò với nhau thế nào, mà
con Hồng có chửa. Ông thợ cả nuốt giận gả con gái cho thằng học trò mặt non
choẹt, khi chưa đủ tuổi kết hôn. Những chuyện ấy là do thằng Phúc, sau những
lần ngồi uống rượu với tôi, huênh hoang kể lại, không rõ thực hư thế nào.
Còn bây giờ, đã hai mặt con, vợ chồng nó cãi nhau như
mổ bò. Con Hồng ngày trước xinh đẹp, tha thướt bao nhiêu, thì giờ lôi thôi bấy
nhiêu. Đầu tóc lúc nào cũng rối như tổ quạ, quần ống thấp, ống cao. Tôi đã từng
nói với thằng Phúc. “Cậu bỏ ra một trăm
nghìn, sắm sửa mông má lại cho vợ, khối đứa chưa chồng xách dép cho nó”.
Thằng Phúc nhìn tôi, đầy vẻ nghi ngờ. “Kệ
cha nó. Để thế cho khỏi thằng nào nhòm ngó, anh ạ”. Tôi nóng ran mặt. Con
Hồng thường hay ôm con qua nhà tôi xem nhờ ti vi, nhất là phim Hàn Quốc. Nó mê
phim đến nỗi quên cả nấu cơm trưa cho chồng. Thường con Hồng cứ ôm con, chạy
sồng sộc vào nhà tôi, chẳng thèm chào hỏi ai, còn phát vào đít thằng con, chửi.
“Tiên sư bố mày! Làm ông mất đoạn đầu
rồi”. Rồi nó ngồi bệt, tự nhiên vạch áo cho con bú, tôi liếc mắt sang, thấy
nó hếch mặt mê mải, bầu vú tròn có những tia máu xanh chạy dưới làn da trắng.
Chuyện hiểu lầm của thằng Phúc với tôi, xảy ra từ hè
năm ngoái. Buổi sáng, tôi dậy sớm quét dọn, đang quèn quẹt ngoài cổng thì thấy
con vợ thằng Phúc nhảy rào sang. “Cho em
mượn cái bật lửa. Bật lửa nhà bố con nó bỏ đâu không biết”. Tôi ngạc nhiên
nhìn cách ăn mặc nhố nhăng của con Hồng. Quần ngủ gì mà vải hoa lại đính mảnh
vải hồng hình tam giác đằng trước, trông khiêu khích thế? Đến khi đưa cho nó
mượn cái bật lửa, nhìn gần mới thấy quần
ngủ nó mặc lộn đằng trong ra ngoài, hai túi quần phe phảy như tai lợn, quần lót
ngoài quần dài. Kiểu này, đêm qua tụt ra, sáng vội vàng mặc vào nên lố lăng
thế. Tôi thì ngượng chín người, nó vô tâm cười nhỏn nhẻn. Thằng chồng dậy đi
tiểu, thấy con vợ lôi thôi nhảy rào từ nhà tôi về, bèn hỏi. “Đi về sớm thế hả con kia?”. “ Đi xin lửa! Có cái bật lửa, hút thuốc lào
rồi để đâu?”. Tôi nghe thằng Phúc rít lên khe khẽ. “Mày đi xin lửa mà quần áo thế này à?”. Rồi lịch bịch, lào thào,
gấm gừ, rồi tiếng con vợ ré lên: “Đêm qua
đứa nào rúc mặt vào...ông hả? Ông đi xin lửa, chứ không phải loại mèo mả gà
đồng nhé. Đồ khốn nạn!”. Thế là rõ. Thằng Phúc ghen với tôi. Từ đó nó không
thèm sang nhà tôi chè, rượu tán phét nữa. Con chó con nhà tôi, mỗi lần thấy con
Hồng “xi” thằng cu ị thì chạy sang, một lần kêu ăng ắng chạy về chân sau què
khập khiễng. Vợ tôi hỏi với sang. “Đứa
nào đánh cho của chị thế?”. Thằng Phúc bâng quơ: “Cho chừa thói ăn vụng nhà người”.
Chuyện thằng Phúc nghi ngờ vợ cứ âm ỉ mãi trong những
đêm dằn vặt, cãi chửi nhau. Con Hồng cũng hiểu sự việc trở nên nghiêm trọng,
không thể thanh minh hay kêu khóc ngêu ngao như trước. Chẳng hiểu sao, một hôm
con vợ ôm con về thị xã bán hàng cho chị gái. Chị nó là y sĩ bệnh viện, có làm
thêm quán ăn nên thiếu người làm. Thằng Phúc, đi thì chớ, về đến nhà là uống
rượu, chửi bóng, chửi gió đứa nào dụ dỗ vợ con nó. Nó còn đe sẽ “xin tí tiết”.
Chắc là nhằm vào tôi.
Người thỏa mãn nhất trong vụ này là lão Trạng. Lão là
người luôn có tính thù vặt, hay đưa chuyện. “Thằng Phúc thế mà tinh! Nó bắt được quả tang con vợ đang sấp, ngửa
đấy”. Lão cứ nói thế đấy, ai có tật thì giật mình. Rỉ rả mãi đến nỗi mọi
nghi ngờ đều chĩa về tôi. Một lần Chủ tịch xã gọi tôi vào cảnh cáo. “Chú là cán bộ, đừng để xảy ra điều tiếng gì
đấy”.
Tôi đáng gõ máy chữ lạch cạch nội dung báo cáo về
chương trình xây dựng khu dân cư văn hóa mới, thì lão Trạng đến chơi. Nghe
tiếng chó sủa, tôi ngó ra thấy lão đang khua khua cây gậy gỗ chạm đầu rồng, miệng mắng chó. “Lũ này láo nào. Người quen đây mà”.
Ngồi uống nươc, lão bắt đầu đảo mắt xoi mói quanh nhà. “Chú làm cán bộ xã mấy năm rồi, cũng chẳng sắm sửa gì được nhiều nhỉ?”.
Đó là lão phát hiện trên tủ nhả tôi có thêm chiếc ti vi 40 in. Tôi giải thích. “Cái ti
vi nhà nước cấp cho xã miền núi. Hội trường xã cửa nẻo tuềnh toàng quấ, cháu
vẫn phải để ở nhà”. Lão nhấp ngụm
nước trà, khà một tiếng như uống rượu. “Ngon!
Chè giống mới này ngon. Xã mình năm nay làm dự án trồng chè, hình như mỗi héc
ta bớt lại năm trăm nghìn tiền vay vốn ưu đãi. Sao thế nhỉ?”.Tôi khó chịu,
nhìn lơ đãng ra sân, chờ lão vào chuyện. Hôm qua, tôi bắc thang chặt bỏ hai
cành nhãn cạnh rào nhà lão mọc ướm sang sân nhà tôi. Việc này tôi đã thông báo
với lão từ tuần trước, nhưng lão im lặng. Lão Trạng đi ăn đám giỗ về, chắp tay
sau đít nhìn lên cành cây cụt, chửi: “Quân
ngu! Có của không biết giữ mà ăn. Đói rã họng ra”.
Lão Trạng lương hưu mỗi tháng hơn ba triệu đồng. Cô
con gái lớn là kỹ sư hóa, mỗi tháng biếu mẹ một triệu, cộng tiền từ vườn chè,
nhãn, hai vợ chồng lão sống thoải mái. Bà vợ lão thì quý vợ tôi, vì hai bà con
hay chung việc đồng áng, vườn tược. Có nồi sắn ngon, bắp ngô mới luộc đều gọi
ra hàng rào, cho nhau. Từ hàng rào dứa, chỉ ba bốn nhảng chân là tới nhà lão,
bà vợ nhổ một khóm dứa, mở lối đi nhỏ để hai người đàn bà có thể bước qua lại
ngồi trò chuyện. Lão Trạng lấy rong tre lấp kín lối đi, mắng vợ. “Yêu nhau rào giậu cho kín”. Lão còn bảo
tôi: “Nền nhà chú ở bây giờ, ngày trước
bố tôi cho ông cụ chú đấy”. Lão kể như thể nhà tôi mang ơn nhà lão. Thực
ra, đất ông nội tôi để lại la mảnh vườn phía trên. Bố tôi đi Điện Biên về,
chuyển xuống gần nhà lão cho vui, tắt lửa tối đèn có nhau. Ông cụ mất cả hai
chục năm nay, làm sao biết lão nói đúng hay sai. Từ ngày lão về hưu, cái bờ rào
dứa luôn bị biến động. Hàng rào trước kia của nhà tôi, ông cụ để vừa làm ranh
giới, vừa lấy quả ăn, quả mọc bên nào, nhà nấy bẻ. Lão Trạng về hưu, mỗi tháng
xới cỏ bờ rào một lần, hàng dứa bên ấy bị chặt đứt chân, đạp sang phía vườn
tôi. Cây nhãn lão trồng sát bờ rào, nay đã chạy sang phần đất nhà lão hơn một
mét. Tôi không quan tâm chuyện ấy, nhất là đất bờ rào. Người miền núi chúng
tôi, đất đồi rừng bỏ chưa làm hết, tranh chấp làm gì tí đất vườn? Nhưng cây
nhãn nhà lão ngày một lớn, vươn hết cành sang sân nhà tôi. Nhân hôm lão đi ăn
cỗ, ở nhà tôi bắc thang chặt phăng. Hôm nay lão đến, có lẽ để gây sự đây. Tôi
đã có chủ ý, nếu làm căng, thì tôi cũng không nể nang nữa. Cứ căng dây, cắm
sào, vườn nhà ai, cây nhà ấy, thò sang hàng xóm là chặt. Nhưng lão không đả
động gì đến cành nhãn. Ngồi uống nước, chuyện vãn lão mới nói nhỏ với tôi: “Chú
ạ...cái thằng Phúc như thế là không được. Nó cứ nghi ngờ lung tung, làm mất
đoàn kết làng xóm. Hôm nào họp xóm, chú phải có ý kiến mới được. Tôi ủng hộ!”.
Nói xong lão xin phép ra về cho tôi làm việc, ra sát bờ rào, còn cẩn thận lấy đầu
gậy đẩy cành rong tre kín lại.
Bên nhà lão,
tiếng hai bà cháu cười giòn tan. Niềm vui vô bờ của bà lão bên ấy là những ngày được chơi với
cháu ngoại. Thi thoảng, con gái bà mang cháu về gửi ông mấy hôm. Thằng bé ba tuổi, chạy tung tăng, lúc
lọi khắp xó xỉnh trong nhà. Tôi nghe bà lão nựng cháu: “Nào! Thằng chó con ngồi chơi để bà nấu cơm cho con chim này nó ăn nhá”.
Bỗng thằng bé khóc thét, tiếng bà lão kêu làng nước. Tôi chạy ra, định bước qua
rào thì vướng cành rong tre, bèn nhảy ào sang. Một cành gai móc phải ống quần
làm tôi mất đà suýt ngã chúi, cành nhãn bên cạnh quật ngang mặt, đau điếng. Tôi
không kịp phủi tay, chạy ngay vào nhà. Thằng bé nằm lăn lộn khóc, bên cạnh là
cái phích đổ nghiêng, nước sôi chảy lênh láng. Tôi ôm vội thằng cu, nhảy ra
nhấn ùm nó vào bể nước cạnh giếng. Thằng bé bị sặc nước, vùng vẫy. Lão Trạng
lúc ấy mới chống gậy về tới, thở hổn hển. Thấy cháu bị nhấn nước, lão kêu lên:
“Ối giờ ơi! Chú định giết cháu tôi à?”.
Mặc kệ lão vung gậy cuống cuồng chạy vòng quanh, tôi gọi sang nhà thằng Phúc: “Phúc đâu! Tới nhanh cứu thằng bé với anh”.
Thằng Phúc cởi trần, phi qua liền hai hàng rào. Tôi giục: “Chú lấy xe máy của anh, chở thằng cu đi bệnh viện cấp cứu ngay”.
Thằng Phúc cuống lên, đạp mãi xe không nổ. Tôi đưa thằng cu cho nó, rồi khởi
động xe. Chiếc xe lao bạt mạng trong đường làng, ra quốc lộ.
Thằng cu được đưa ngay vào phòng cấp cứu, nghe tôi kể
việc ném thằng bé vào bể nước, ông bác sĩ trực khen: “Khá đấy! Cậu nghĩ ra cách ấy thật giỏi?”. Tôi thú thật, cậu em là
bác sĩ quân đội thường dặn làm thế, nếu chẳng may các cháu bị bỏng. May quá,
lão Trạng đến nơi, đúng lúc bác sĩ khen việc làm của tôi, không thì lão kiện
tôi mất. Xong việc, tôi kéo thằng Phúc ra làm cốc bia, thì có một cô gái mặc áo
hồng chạy vụt vào, hỏi y tá trực: “Chị
ơi! Thằng bé bị bỏng vừa nhập viện nằm phòng nào?”. Cả tôi và thằng Phúc
đều ngẩn người ra, vì cô gái chính là con Hồng. Nhìn nó khác hẳn, sạch sẽ, gọn
gàng, xinh đẹp gấp chục lần hồi ở nhà. Nhìn thấy chồng, nó túm ngay lấy tay,
hỏi dồn: “ Là thằng cu cháu bà Quỳnh phải
không? Hai anh đưa nó đi bằng xe máy à? Mà sao lại trần trùng trục thế này?”.
Nó hỏi tự nhiên như vợ chồng chưa hề có chuyện. Thằng Phúc mặt sưng sỉa, định
quay đi, tôi liền nắm tay nó lôi lại. “Này
tao bảo thật. Chú quá đáng với vợ và hàng xóm lắm. Đưa vợ vào thăm thằng cu tí
đi, rồi mà liệu xin lỗi nó. Tao về trước đây”.
Chuyện về hàng xóm thì còn nhiều. Tôi có ý định, lúc
nào rảnh rỗi sẽ viết lại cho mọi người cùng đọc, biết đâu lại có ích.
9. HUYỀN THOẠI
RẮN THẦN
Trưa tháng sáu. Nắng hoa mắt. Trời lặng phắc không một
phảy gió. Bụi chuối héo rũ, cây bưởi táp lá. Cả làng Nụ vạ vật trong cơn ngủ
trưa nhớp nháp mồ hôi. Chợt bóng mây kéo ngang, ngọn tre cựa mình kẽo kẹt. Cơn
buồn ngủ chìm xuống khi hơi mát phảng phất. Bỗng tất cả giật mình trong mồ hôi
ướt sũng. “Ối làng nước ơi! Ối làng nước ơi!”. Tiếng kêu thất thanh từ đầu
làng, réo tới giữa làng. “Ối làng nước ơi! Thằng Ngoạn liều chết rồi!”. Tất cả
bật dậy. Ai chết? Nhà nào có đám mà loa truyền thanh xã không thông báo, lại để
con mẹ Tùng mồm loa mép giải làm ầm ĩ lên. “Thằng Ngoạn liều chết rồi! Thằng
Ngoạn rắn chết rồi!”. Những tấm lưng lại chớm nằm xuống tìm hơi hướm mát mẻ.
Tưởng gì! Cái thằng người không ra người, ngợm không ra ngợm. Chết đi là vừa.
Nhưng đa số không nén nổi tò mò, đã bước ra đường. Bà Tùng hình như đi từ hướng
Động Rắn về, bước chân te tái đi sau cái miệng lu loa. Có vẻ bà hào hứng, bàn
tay khua khoắng loạn xị, mái tóc cuốn trên đầu xổ tung, cái áo cánh rách toạc
đường chỉ tới nách, hở nguyên một bên vú quả mướp thỗn thện.
Bà Tùng đã dừng lại giữa đám đông người, dưới bóng cây
đa giữa làng. Cái miệng chừng đã mỏi, bọt mép đùn trắng, chỉ còn tiếng lào
thào. “Nó (thằng Ngoạn) bị rắn chúa cắn chết đấy! Tôi thấy nó nằm úp mặt vào
cái hang đào dở, người tím đen. Trên vách động có tiếng con gái cười khanh
khách. Sợ vãi đái!”. Mọi người bật cười ồ. Bà Tùng sợ vãi đái thật, đũng quần
còn loang ướt. Nhìn đám nước bọt trắng trên mép bà, người ta nghĩ đến nước bọt
rắn chúa. Sững sờ. choáng váng. Làng Nụ đã hai lần bị Ngài ra phép, lần trước
vào năm “sáu mươi” mới thành lập Hợp tác xã nông nghiệp, ông đội trưởng sản
xuất tí nữa thì bị rắn chúa cắn, lần này thì có người chết thật rồi.
Cái miếu cổ ngay đầu làng, đối diện với Động Rắn. Các
cụ bảo miếu xưa thờ sơn thần, sau này người làng tiện thể hương khói cho cả
thần linh, thổ địa. Tuy lợp bằng lá cọ, nhưng miếu có sáu cây cột to bằng gỗ
lim đen bóng. Hai cây Nụ đứng trước miếu cành lá xòe rộng như chiếc lọng xanh
thời vua chúa. Người làng thường thấy một con rắn dài tới bốn thước, da trắng
mốc, trên đầu có cái mào đỏ, cứ ngày rằm mùng một là chui vào nằm khoanh tròn
trên bàn thờ hậu cung. Người ta đồn đấy là rắn chúa, chỉ huy hàng ngàn con rắn
các loại trong Động. Truyền thuyết rằng, ngày xửa ngày xưa có vị chúa núi họ Đèo
cai quản cả một vùng rộng lớn, từ núi Nà Rậm sang bên kia sông Lô, tới vùng Tam
Đảo. Con gái chúa núi tên là nàng Nụ 18 tuổi, mắt đẹp như trăng rằm, thường
khoác chiếc áo màu trắng tinh khiết, mái tóc dài cài bông hoa rừng đỏ tươi.
Ngày nào nàng cũng một mình lang thang dạo chơi khắp chín rừng, mười bản. Một
chiều nghỉ chân bên suối, nàng tình cờ nhìn thấy chàng tiều phu trẻ gánh củi
trên núi xuống. Nóng bức quá, chàng ta cởi chiếc khố cũ giặt phơi trên tảng đá,
rồi trần truồng tắm suối. Tưởng giữa rừng không có ai, nào ngờ nàng Nụ nhìn
thấy. Nước suối trong xanh, thân hình chàng tiều phu rám nắng, chắc lẳn như cây
lim, cây chẹt. Chàng vùng vẫy bơi lội, nàng nín thở nấp sau bụi lau, mặt tựa
hoa chuối rừng.
Rồi nàng quen tới ngồi bên suối mỗi chiều. Hai người quen
nhau, rồi đem lòng yêu tha thiết. Khúc suối trong xanh nhiều lần in bóng hai
tấm thân trần quấn quýt giữa làn nước mát. Chuyện đến tai chúa núi, ngài nổi
giận đuổi chàng tiều phu ra khỏi địa phận mình cai quản. Ngày chàng trai xách
búa ra đi, nàng Nụ cũng trốn cha theo người yêu, nhưng mới đi được một đoạn
đường thì quân binh đuổi kịp. Theo lệnh chúa núi, chàng trai bị giết chết rồi
ném xác xuống vách núi. Nàng Nụ rú lên thê thảm, gieo mình theo người yêu. Nàng
biến thành con rắn trắng có cái mào đỏ. Nơi nàng lao đầu xuống bây giờ là Động
Rắn. Từ bao giờ, người ta trồng hai cây Nụ trước miếu để nhớ tới mối tình chung
thủy của đôi nam nữ. Động rắn là cái thung lúng nhỏ, trên cao là cọ và bứa mọc
xen nhau, dưới đất bạt ngàn cỏ tế một loài cây dương sỉ cao lút đầu người. Còn
rắn thì vô thiên lủng. từ đám rắn lục nhỏ rình mò trên cành cây tới bọn hổ
mang, hổ trâu, rắn ráo …thường lao vút từ trong bụi rậm, bò loằng ngoằng trước
mặt người ta, hay những thằng cạp nong, cạp nia khúc đen khúc trắng loang lổ,
đêm trăng bò ra nằm dài thượt ngang lối mòn.
Giữa mùa hè, làng lại có đám ma. Đám thằng Ngoạn, một
kẻ tứ cố vô thân, tưởng ít người hóa ra không phải. Cả làng ai cũng đi đứa đám.
Không hẳn là “nghĩa tử, nghĩa tận”, mà người ta tò mò. Trên đường ra nghĩa địa,
tiếng rì rầm nho nhỏ của phụ nữ, tiếng ồn ào, choang choác của đàn ông. Không ai
bảo ai, họ đều nhắc đến kẻ xấu số đang nằm trong chiếc quan tài gỗ mộc kia.
Từ nhỏ thằng Ngoạn đã nổi tiếng liều. Nó thường trèo
lên hai cây Nụ trước miếu tìm những quả chín chua chua ngọt ngọt để ăn. Nhiều
lần nó có mò vào trong miếu lấy trộm xôi, chuối trên ban thờ. Thằng Ngoạn bị bố
nó đánh đòn rất dữ vì tội này. Nó có thể liều cưỡi trâu phi nước đại hay treo
mình trên cành đa cạnh giếng làng để rình xem trộm phụ nữ tắm mà không bị đánh
đòn. Nhưng chưa ai dám vào miếu trộm đồ cúng vì sợ rắn chúa. “Mày không sợ chết
à. Hả thằng bỏ mẹ kia?”. Bố nó vừa đánh vừa chửi, nó cũng chỉ chừa được dăm
hôm. Người làng kể mấy chục năm trước, ông đội trưởng sản xuất suýt bị rắn cắn
chết vì định phá miếu lấy cột lim làm trục lăn lúa. Buổi trưa ông đội cầm sào
ra đo cột miếu tính toán thì nhìn thấy rắn chúa. Nó nằm khoanh tròn trong hốc
cây nụ, nhô cái đầu có mào đỏ nhìn ông. Nhưng ông vốn là lính Điện Biên, sợ gì
rắn. Bẻ cái sào vừa một đoạn bằng tầm tay, ông tiến lại gốc nụ quyết đập chết
con rắn. Ông vừa chọc cây sào vào hốc thì con rắn lao ra, khoảng cách tới ông
chỉ nửa mét. Nhanh tay ông túm được cổ rắn, xiết chặt, vừa khi hai cái răng đầy
nọc độc chạm vào áo. Con rắn cuồn cuộn thân mình, mạnh mẽ muốn lao ra cuốn chặt
kẻ phá rối, ông đội lấy hết sức bình sinh đẩy nó trở vào hốc cây. Cả hai ở thế
giằng co quyết liệt. Suốt buổi trưa, sức cùng lực kiệt, ông đội gục xuống ngất
đi. Rắn chúa không cắn ông mà bò vào trong động. Ông đội ốm nằm hàng tháng
trời, một bên chân và tay phải bị liệt, mồm méo xệch, một năm sau thì mất. Sau
này có cậu Tài người làng đi làm bác sĩ, nghe kể lại thì bảo rằng ông bị chứng
xuất huyết não, đột quỵ. Người làng Nụ không tin, họ cho rằng ông đội bị rắn
chúa phun nọc độc, may mà không chết ngay.
Ngoạn mồ côi mẹ
từ nhỏ, rồi năm 17 tuổi thì mất nốt bố. Hắn dược thừa hưởng ngôi nhà ba gian,
có cả tủ li, giường rẻ quạt, bộ tràng kỷ cổ, hai con bò và mẫu vườn. Mười bảy
tuổi mà hắn lòng khòng tay vượn, mặt mũi toàn mụn bọc. Trên người Ngoạn cũng
lổn nhổn cục nhỏ thì bằng quả sim, lớn thì như quả ổi. Ghớm ghiếc. Đã thế hắn
lại lười biếng, hay rượu chè, nên gái làng ối cô xấu khổ sở mà không thèm lấy
hắn làm chồng. Đầu tiên Ngoạn bán cặp bò. Ăn chơi thả cửa, mấy tháng sau đến
lượt vườn cây toàn những mít xoan lầm lẫm. Sang cát cho bố xong, Ngoạn bán nốt
cái nhà và mảnh vườn. Hắn dựng một túp lều cạnh lối vào động Rắn, đối diện
nghĩa địa làng. Ngoạn cũng tính toán ra phết. Những ngày đứt bữa hắn mò sang
miếu gặp thứ gì ăn được là khuân về. Làng có người chết mới chôn, hắn đi đưa
đám nhưng là kẻ rời nghĩa địa sau cùng. Chờ thân quyến người chết về khỏi, hắn
xin bát cơm cúng. Lấy dao gọt lớp cơm bên ngoài đã cứng, đổ nươc vào bóp tan ra
đem hấp lại. Trứng luộc thì bóc vỏ ra là có đồ nhắm rượu ngay. Đêm cuối năm
lạnh buốt, Ngoạn vẫn mò ra nghĩa địa xem người ta đổi mả, cốt để kiếm rượu
uống. Lần đổi mả cho ông Đàn cán bộ hưu, Ngoạn thấy người nhà ném lên đôi dép
nhựa trắng, hắn lật qua lật lại thấy là đôi dép Tiền Phong còn mới nguyên, một
thứ của hiếm hồi đó. “Cháu xin ông nhá! Vứt đi thì phí quá”. Hắn nhăn nhở xin
người chết rồi đem về cọ rửa sạch tưng, đeo vào chân vừa như in. Ngoạn đeo đôi
dép nhựa, lội ngang dọc trong Động Rắn. Hắn khoe: “Rắn rết thấy tớ là chạy cụt
cả đuôi”.
Là một bợm rượu, Ngoạn thường xuyên thiếu mồi. Hắn
nghĩ ra cách xách gậy vào động xua, đập vài con rắn đem nướng lên uống rượu.
Một chiều hắn đập được ba con rắn hổ to, băm viên đem rán chả. Đang ngồi ngật
ngưỡng bên dĩa thịt rắn, hắn thấy hai người đàn ông lạ đi qua, hắn ngoắc tay
gọi họ vào uống rượu. Người đàn ông lớn hơn, trạc 40 tuổi tò mò: “Ông anh có
món gì mà thơm thế?”. “Cứ ăn đi thì biết!”. Ngoạn khề khà, rồi nhón bàn tay bẩn
thỉu bốc một viên chả rắn đưa cho khách. Người khách chần chừ nhìn, rồi đưa lên
miệng cắn thử. Bị quyến rũ bởi mùi thơm ma quái, ông ta nhai ngon lành. “Ái
chà! Rắn! Ngon quá!”. Người trẻ hơn thấy vậy cũng giơ tay xin một miếng. Chén
rượu chuyền qua ba cái miệng cười tươi. “Ngon. Nhưng phí của. Chỗ thịt rắn này
đổi được cả yến thịt gà”. Thấy khách nói vậy, Ngoạn ngoạc miệng cười. “Lấy đâu
ra thịt gà. Rắn ở đây sẵn, cứ bắt mà chén thôi”. Ông khách cầm cái giỏ bên
mình, đưa cho Ngoạn xem. Ghé mắt vào trong giỏ, hắn thấy hai con rắn nằm cuộn
khoanh. “Ba trăm rưởi một cân đấy ông anh ạ”. Ngoạn tròn mắt, những cục u trên
mặt trồi lên. “Nói phét!”. “Ông anh bảo ở đây nhiều rắn, bắt bán cho bọn tôi.
Rắn hổ ba trăm, rắn ráo một trăm, rắn cạp nong hai trăm. Chơi không?”. Ngoạn giơ
bàn tay nhớp nháp mỡ rắn. “Mỗi ngày một yến! Xong!”. “Nhưng phải là rắn sống,
rắn khỏe đấy. Càng độc càng nhiều tiền”. “Ôi dào! Không nói sớm. Tớ có biết bắt
rắn sống đâu!”. Cái mặt đầy mụn nhăn nhó, ghớm ghiếc. Hai người khách hướng dẫn
tại chỗ phương pháp bắt rắn. Dụng cụ là một cây gậy dài một mét, đầu có cái móc
sắt. Một cái thuổng thật tốt. Rắn gặp người sẽ chạy, đầu ngóc lên. Nhắm cho chuẩn
rồi đưa cái móc ngang cổ rắn kéo lên, tay kia thật nhanh nắm lấy phía dưới cổ
nó. Cứ mạnh dạn nắm chặt từ giữa thân rắn lên gần đầu, nó sẽ không quay lại mổ
mình được, đừng nắm gần đuôi mà nguy hiểm. Rắn trong hang thì phải đào, thấy nó
nằm khoanh tròn trong hang thì lựa móc khúc gần đầu nó mà kéo ra, rồi chụp lấy,
bỏ vào bao tải. Ngoạn tợp xong ba ngụm rượu thì thuộc lòng bài học sơ đẳng. Đầu
nó gật gù, miệng chèm chẹp. “Có thế mà mình ngu lâu không biết”. Khách về rồi,
hẹn tuần sau trở lại. Cũng chỉ ba ngày thực tập, Ngoạn trở thành tay bắt rắn
chuyên nghiệp. Cũng do tính liều mà hắn thành nghề sớm. Động rắn lại là “vương
quốc” rắn, tha hồ cho hắn hành nghề. Ngoạn chọn những con rắn to, độc bắt
trước, lũ rắn nhỏ để nuôi dự phòng. Có tuần thần tài phù hộ, hắn bắt được mười
mấy cân rắn, thu bạc triệu.
Ngoạn liều hãnh diện vì đã có nghề nghiệp đàng hoàng,
không còn no đói thất thường nữa. Không những đủ cơm ăn, rượu uống, hắn còn mua
gạch về xây được căn nhà nhỏ. Trong nhà đã có chiếc giường mô-đéc mới, bộ bàn
ghế nhựa cùng phích nước, ấm chén. Khách đến mua rắn khá đông, nhưng Ngoạn
trung thành với hai vị khách đầu tiên đến dạy nghề. Hai người này lâu lâu lại
mời Ngoạn đi rượu thịt chó, chủ yếu là lấy lòng hắn, giữ mối.
Rồi làng Nụ thấy Ngoạn liều phành phạch chiếc xe
Babetta, mà hồi ấy người ta hay gọi chơi là ba bét nhè. Xuống thị xã về, hắn
thường huênh hoang với bọn trai mới lớn, rằng lũ gái làng xấu như Thị Nở mà còn
ngu, chê hắn. Gái thị xã đẹp như tiên. Một trăm nghìn một phát, ba trăm nghìn
một đêm. Chơi đã đời. Ngoạn nghiện gái, cứ rượu vào là thấy người nóng rần rật,
chỉ mong có tiền để đi nữa.
Chưa đầy ba năm, rắn trong động ít hẳn vì bị Ngoạn
liều tàn sát, truy đuổi. Trong làng, lũ chuột cũng tự nhiên sinh sôi đông đàn,
dài lũ phát khiếp. Chuột nhởn nhơ, ngang nhiên tranh giành miếng ăn với con
người. Đàn gà mới lớn, đêm không úp lại sáng ra chỉ còn đám lông đẫm máu. Ngô
lúa ngoài đồng vừa xanh lá là lũ chuột xúm vào cắn xé như liềm cắt ngang cây.
Ngoạn liều thường xuyên bị chuột cướp thức ăn vì hắn lười và đoảng vị. Hắn mua
một con mèo về nuôi trong nhà để dọa chuột. Đêm chú mèo kêu yếu ớt “Nheo!
Nheo!”. Đám chuột cụ ngứa mắt, xúm vào xé xác ông “tiểu hổ”. Nỗi buồn phiền xưa
cũ từ đâu lại kéo về làm tăm tối khuôn mặt già trước tuổi của Ngoạn. Hắn không
còn no đủ, phởn phơ như trước, vì rắn trong động ít dần, rồi đi đâu mất sạch,
có ngày chẳng bắt được con nào. Người hắn gầy rộc đi, mấy cục u trên mặt thều
lễu, như to hơn.
Đã lâu lắm, Ngoạn chưa ghé miếu cây Nụ. Hôm ấy đói quá
hắn dặt dẹo đi về phía hai tán cây hình lọng xanh. Vừa mở cánh cửa gỗ mục, hắn
giật mình suýt ngã vì hàng loạt bóng đen lao ra. Hóa ra lũ chuột. Dân làng đem
cúng thứ gì, lũ chuột chén trước cả thần thánh, đừng nói đến để phần cho Ngoạn
liều. Giận lũ chuột sôi gan, Ngoạn bỗng nghĩ tới món thịt chuột nướng hoặc nấu
mẻ. Nghe nói thịt chuột khá ngon, ở ngoài ven sông, mấy làng còn có lệ sửa cỗ
bằng thịt chuột. Ngoạn quyết định tuyên chiến với lũ chuột. Bắt được mấy con
chuột đồng béo múp, hắn lột da, chặt bỏ đầu rồi đem ướp muối sả, mắm tôm, lá
chanh đem nướng, quả nhiên là món thơm ngon. Lắc lư cái đầu tóc bờm xờm, hắn
thốt lên. Ngon thật! Thua đếch gì thịt chó.
Có tiếng xe máy chạy vào sân, tiếng chân chống soành
soạch, tiếng đàn ông như ngẹt mũi. “Ối giời! chiến hữu lại uống rượu một mình?
Sao lâu không thấy xuống thị xã?”. Chẳng buồn nhìn lên, Ngoạn cũng biết đó là
tay thầu rắn dưới phố. “Vẫn nhớ đến tớ cơ à? Có cái xe bán mẹ nó rồi, đi bằng
gì? Có nhắm thì ngồi xuống đây!”. Tay kia ngồi
phịch xuống chiếc chiếu rách trải dưới đất, tự rót chén rượu làm một hơi. “Này
chiến hữu! Khách bên kia biên giới đang đói hàng, nó lên giá rồi đấy. Anh em
mình đã thừa tiền đâu mà ngồi uống rượu. Mà ông kêu hết hàng, sao có đĩa thịt
rắn tổ bố thế này?”. Ngoạn cười khìn khịt: “Làm gì còn! Tớ xơi thịt chuột trừ
bữa đấy. Thử mà xem, ngon đáo để”. Tay thầu
rắn vỗ vai Ngoạn: “Sao bảo trong này có con rắn chúa. Bắt được nó nhốt một chỗ
là rắn theo về hàng đàn, hàng lũ. Ông bắt được không?”. Mắt Ngoạn liều đỏ ngầu:
“ Có nhìn thấy đâu mà bắt. Rắn chúa chứ rắn thần tao cũng đéo sợ”. “Vậy thì đi
tìm đi! Tớ đặt giá hai triệu đồng một cân đấy”. Ngoạn liều bốc miếng thịt
chuột, nhai rau ráu. “Ông cứ đùa dai! Rắn đéo gì mà những hai triệu, tớ chưa
say đâu!”. Tay thầu rắn nổi cáu, chửi thầm
trong đầu “đéo bà cái thằng nát rượu”. Rút ví ra, tờ bạc chấp chới trên tay.
“Nói nghiêm chỉnh đấy. Tôi đặt tiền trước hai trăm nghìn này”.
Sáng hôm sau, Ngoạn liều làm một bữa rượu thịt chó no
say rồi cầm gậy sục vào Động Rắn. Hắn cũng ghé qua miếu, ngó nghiêng tìm kiếm
chỗ hốc cây Nụ, nơi mấy chục năm về trước ông đội trưởng sản xuất gặp rắn chúa.
Hắn loạng choạng đi vào động, vấp vào bụi tế ngã chỏng gọng. Vừa đứng dậy,
Ngoạn bỗng dụi mắt. Phía trước mặt hắn, đang lướt trên đám cỏ tế kia chả là rắn
chúa ư! Rắn chúa ngóc cái đầu có chiếc mào đỏ lên, lướt tấm thân trắng mốc chui
vào đám tế rậm. Ngoạn mừng rú, vùng dậy đuổi theo. Dùng cây gậy đập rạp đám tế
xuống, hắn vạch từng khóm cỏ, xoi mói. Được một quãng khá xa, Ngoạn liều mệt
phờ. Linh tính làm hắn giật mình quay lại. Con mẹ nó! Sao lại ở phía sau rồi.
Con rắn đã loáng thoáng bò về phía miếu cây Nụ. Ngoạn cuống cuồng đuổi theo.
Hắn thấy mấy triệu bạc đang đốt nóng trong túi. Lối mòn lởm chởm đá cục, đầy
vết chân trâu. Trên vách núi hình như có tiếng con gái cười giòn giã. Ngoạn
nghĩ bụng. “Đứa nào cười giống con điên thế nhỉ?”.
Mấy hôm không thấy Ngoạn về nhà, người làng cho rằng
hắn đi bắt rắn ở đâu đó. Có người đồ rằng hắn đói quá, bỏ đi nơi khác kiếm ăn
chăng. Giữa trưa tháng sáu nóng như rang, bà Tùng vào Động Rắn nhổ mấy cây nhân trần về nấu nước giải nhiệt, đã tìm
thấy hắn.
10.
MƯA Ở CUỐI TRỜI
Mưa
đang nặng hạt dần. Trời như đổ cả thùng đậu đen xuống mái lá. Cơn mưa đã níu
chân tôi ngồi lại căn nhà hầm. Không biết thời gian trôi đi bao lâu, còn mái
tóc của cô gái vẫn chưa khô hẳn. Cô ngồi phía đầu giường bên kia, chỗ có chiếc
bàn nhỏ, le lói ánh đèn dầu chiếu ra từ một lỗ nhỏ của ống bương chụp bên
ngoài, một loại đèn “phòng không”. ánh sáng soi mờ mờ một nửa thân hình có
những đường cong mềm. Một bên bờ vai áo bà ba đen; một ống quần xắn đến gối để
lộ bắp chân trắng. Chỉ có mùi hương hăng hắc của lá gội đầu nguyên vẹn tràn về
phía tôi ở đầu giường bên này. Tôi đã khoanh chân ngồi tựa vào thành đất mát
lạnh. Khỉ thật! Sao mình cứ tưởng tượng bánh lương khô trên bàn kia là một bánh
thuốc nổ TNT nhỉ? Bánh lương khô đó tôi đem tặng cô gái lúc mới đến. Cô để ngay
dưới chân đèn và nói: “Lương khô của các anh ăn ngon thật, nhưng dính răng dữ
lắm”. Có tiếng pháo địch vọng lại ì ầm. “Bọn bên Dốc Miếu bắn đó!”. Cô gái bình
thản bảo tôi.
Tôi
bị phân tâm bởi tiếng mưa ràn rạt trên mái lá. Cô gái lại hỏi, giọng lảnh lót
như tiếng chim: “Anh quê ở mô? Đi bộ đội lâu chưa?” “Tôi quê Vĩnh Phú. Cũng mới
nhập ngũ năm ngoái”. Tôi muốn im lặng, cho những tính toán bên trong. Cô gái
thì muốn hỏi rất nhiều. Cô thấy lạ khi một anh chàng đi “tán” gái mà cứ ngồi im
như thóc. “Anh được đi chơi hay là...?” Tôi không để ý tới câu hỏi có chút nghi
ngờ của cô. Tôi vẫn chú tâm vào tiếng mưa ma mị. Mưa đang gõ trên mái lá cọ nhà
tôi, một căn nhà nhỏ nằm nép dưới chân đồi cọ già. Tiếng mưa hay còn gọi là bản
hoà tấu mưa ào ạt, sôi nổi đến không thể phân biệt đâu là tiếng mưa trên mái
nhà, đâu là tiếng mưa ngoài rừng cọ. Thật đúng như câu “Mưa rừng cọ. Gió rừng
thông”. Mưa đêm vào tuần trăng mật thật thú vị. Cảm giác chật chội, ấm cúng
giữa cơn mưa làm chúng tôi không muốn rời nhau ra. Lộc nhỏ bé, dịu hiền nằm rúc
vào nách tôi. Mùi lá gội đầu, mùi thân thể trinh nữ vừa trải qua yêu thương
nồng nồng, chật căn buồng nhỏ. Tôi được nghỉ phép mười ngày trước khi vào chiến
trường và quyết định cưới vợ. Lúc đầu tôi không định tổ chức, nhưng Lộc khăng
khăng đòi cưới. Cố róng riết: “Các anh đi đằng ấy, biết thế nào mà giữ chân. Cứ
sấn sẹo, buộc thừng cho chắc ăn, rồi muốn đi bao giờ về cũng được”. Không nói
ra nhưng tôi ngại chiến tranh không chiều lòng người. Lỡ sa sẩy, tôi sẽ làm Lộc
khổ suốt đời. Sau Lộc động viên mãi, tôi ừ cưới. Lộc nói muốn có đứa con, nhất
là con trai. Thời chiến người phụ nữ có con là có cả trái núi vững vàng mà dựa
vào cho khỏi ngả nghiêng, chao đảo. Vậy mà thời gian của vợ chồng tôi ít quá:
Năm đêm và một buổi trưa trên đồi cọ vắng. Chúng tôi hối hả yêu nhau, cuống
cuồng yêu nhau. Ngày thì dài dặc mà đêm ngắn quá.
“Anh
thấy con gái nông trường chúng em có dữ lắm không?” Tiếng lảnh lót của cô gái
làm tôi chợt tỉnh. “Các cô... à các o hả! Chắc là hiền vì tôi mới biết một mình
o thôi!”. Tôi nhớ đến lời dặn của một anh lớn tuổi trong đơn vị “Vào Quảng Bình,
muốn con gái trong đó cảm tình thì phải gọi họ là o, đừng gọi cô như ngoài Bắc,
họ bảo mình rủa họ là “Cô hồn cáo”. Cô gái này nhìn xa giống vợ tôi, nhất là
mái tóc dài và dáng người thon nhỏ. Nhìn gần mặt cô tròn hơn, còn Lộc của tôi
mặt trái xoan.
Năm
ngày trước, chiếc xe tải bịt kín vải bạt đổ chúng tôi xuống một địa điểm cuối
Quảng Bình. Đêm tối đen. Tiếng thì thầm hỏi nhau. “Đây là đâu nhỉ?” “Chắc là
ngã tư Thạch Bàn. Sắp đến Vĩnh Linh rồi”. Bê trưởng gắt gỏng: “Trật tự! Trung
đội thành ba hàng dọc! Bên phải... quay! Điểm số!” Khi chiếc xe quay đầu, ánh
đèn gầm chiếu qua chỗ tôi, chiếc đồng hồ đeo tay chỉ 22 giờ 30 phút. Chúng tôi
lặng lẽ hành quân. Là đơn vị thông tin, chúng tôi chẳng bao giờ được hoà vào
dòng chảy ầm ầm của đại quân. Độc lập tác chiến là đặc điểm của đơn vị tôi với
những quy tắc bảo mật nghiêm ngặt. Mưa lắc rắc suốt dọc đường hành quân đến địa
điểm mới. Trên lưng tôi là chiếc máy vô tuyến nặng hai chục ký, một cuộn dây
định hướng nặng năm ký, lại còn ba lô, lương thực. Tôi dồn sức lên chiếc gậy,
cố cho khỏi ngã. Đường núi trơn như đánh bẫy. Tiếng ối! ái! Mẹ ơi! khe khẽ dọc
hàng quân. Cố hết sức mà tôi vẫn ngã liên tục, nghiến răng chịu đựng những cú
va đập tưởng vỡ xương hông. Qua một đồi tranh tưởng đã thoát, nào ngờ lá tranh
sắc ngọt cứa đứt chân tay đau rát. Lệnh dừng lại làm tôi thở phào, một phịch
xuống đất. Xung quanh là mấy thân cây cao su xơ xác. Ai đó bảo: “Đến nông
trường Quyết Thắng rồi”. Đây là đất Vĩnh Linh. Hành quân hai ngày nữa là chúng
tôi có thể gặp địch. Các tiểu đội được đưa vào nghỉ tạm trong những ngôi nhà
nửa chìm, nửa nổi mượn của nông trường. Mắc võng xong, sờ đến vắt cơm đeo bên
hông thì đã nát bét. Chẳng buồn lấy lương khô, tôi lên võng ngủ một giấc mê
mệt.
Các
đội của nông trường ở rải rác quanh rừng cao su để tránh bom pháo. Công nhân
sống theo đội. Họ bám rừng sản xuất trong tiếng ì ùng của pháo địch từ bên kia
sông Bến Hải. Chúng tôi được nghỉ ngơi một tuần, sau đó sẽ hành quân đến địa
điểm cấp trên yêu cầu. Hàng ngày sinh hoạt tư tưởng, ăn nghỉ và tránh tiếp xúc
với dân để giữ bí mật. Mấy ngày đầu tôi toàn nằm võng, gặm nhấm lại những hạnh
phúc vợ chồng vừa được nếm trải. Nằm dưới những nền nhà chìm thế này không sợ
bom pháo nhưng tiếng mưa làm tôi sốt ruột. Bây giờ đang cuối tháng ba. Đúng một
năm tôi nhập ngũ. Đợt chúng tôi đi dịp kỷ niệm thành lập Đoàn 26/3/1971. Còn
hai tháng nữa là thi tốt nghiệp cấp ba, nhưng chúng tôi tình nguyện nhập ngũ.
Những đợt tuyển quân liên tiếp làm chúng tôi không chú trọng vào việc học nữa
mà chỉ náo nức được ra tiền tuyến. Mới hôm nào Lộc còn tiễn tôi đến huyện đội
với chiếc khăn tặng có đôi chim thêu vụng đang bay ríu vào nhau. Mới tuần trước
đây Lộc lặn lội vào tận Hà Tĩnh thăm tôi với nỗi nhớ chồng và ý định gỡ gạc một
đứa con. Chỉ một đêm ở đơn vị, chúng tôi thức trắng với bao nhiêu nỗi buồn lo
hơn là niềm hạnh phúc được yêu nhau. Sáng hôm sau lên xe về quê, Lộc ôm tôi
khóc và nói: “Cầu trời cho chúng mình một đứa con!”. Tôi nói cứng: “Nhất định
sẽ có một thằng cu em ạ!”. Ý định trốn về nhà mấy ngày của tôi xuất phát từ lời
hứa hôm đó với vợ. Tôi muốn gặp lại Lộc chỉ một ngày để chắc chắn chúng tôi
thực hiện được ước mơ nhỏ bé có một đứa con. Từ hôm gặp cô công nhân nông
trường có dáng dấp giống vợ mình, tôi càng nung nấu ý định về nhà. Anh em đơn
vị sẽ cho tôi là kẻ đào ngũ, rồi có thể trung đoàn sẽ rối tung lên vì thay đổi
mật mã. Nhưng tôi đâu phải là kẻ đào tẩu. Tôi chỉ về thăm vợ một ngày rồi sẽ
vào ngay. Đơn vị còn đang nghỉ ngơi cơ mà. Thế nào cũng bị kỷ luật. Sẽ như thế
nào nhỉ. Khai trừ đoàn, hay hạ cấp từ binh nhất xuống binh nhì? Mong muốn có được
đứa con cứ thúc đẩy tôi. Có điều hôm vào đây đi ban đêm. Phải làm sao ra được
ngã tư mới đi nhờ được xe ngược phía Bắc. Bởi vậy tôi hy vọng vào lòng tốt của
cô gái. Bốn ngày trước tôi gặp cô thật bất ngờ khi đang tản bộ giữa hai hàng
cao su xanh tán lá, mê mải ngắm những vết sẹo chéo trên thân cây do dao cạo mủ
để lại, trông như cuống huân chương hạng nhất. Một chiếc lá khô còn sót chao
đảo rơi xuống đất, cố lật mình lần nữa nhìn lên bầu trời. “Chào eng bộ đội! Mấy
eng mới vô?” Tôi giật mình vì tiếng con gái như tiếng chim ngay sau lưng. Sao
lại “eng”? Có lẽ là “anh”, tôi quay lại, thót tim thấy một cô gái nhìn hao hao
giống vợ mình. Cũng thân hình nhỏ tròn lẳn như mình cá trắm. Cũng mái tóc dài
gập đôi lên cặp thành búi nặng sau gáy. Cô xách thùng mủ cao su, nhựa vương một
vệt trắng bên ống quần vải phíp. “Chào cô... à chào o! Đi làm về sớm thế?”
Khuôn mặt tròn sáng lên nụ cười: “Làm sớm tránh máy bay thằng Mỹ anh nờ. Nhà em
đằng tê! Khi mô rảnh mời các anh tới chơi”. Cô chỉ một mái nhà nhỏ trông như chuồng
chim khuất sau một lô cao su. Tôi không cưỡng lại được ý muốn gặp gỡ cô gái
nông trường trông giống vợ mình, nhưng phải hai hôm sau mới có cơ hội. Cơm
chiều xong, lợi dụng lúc anh em chúi vào chơi “tiến lên”, tôi lảng vảng ngoài
lán một lúc rồi nhằm hướng ngôi nhà nhỏ mà đi. Đến sát ngôi nhà hầm mà tôi vẫn
không nghe tiếng trẻ em, người lớn đâu cả. Đến gần chút nữa thấy cô gái bữa
trước đang gội đầu. Chiếc chậu nhôm để trên gốc cây to cắt ngang tầm ống chân,
cô nắm mái tóc dài trước trán, quay vù vù, mấy hạt nước lá thơm văng tận chỗ
tôi.
“
Chào o! Đã cơm nước gì chưa mà gội đầu sớm thế? Cô gái nghiêng đầu nhìn tôi qua
cánh tay giữ mái tóc: “A! Anh bộ đội! Anh đến thiệt hỉ?” Mấy giọt nước cũng
cười long lanh trên môi cô gái “Cơm xong chẳng biết làm gì, nên tìm đến thăm
nhà o! Tưởng có con nít nên đem cho chúng phong lương khô. Thế ra o ở một mình
à?” “Dạ! Lính phòng không anh ơi! Thời chiến có chồng con mệt lắm!”. Cô mời tôi
vào nhà, nhưng tôi từ chối. Tôi muốn tranh thủ ngắm cô gội đầu, ánh chiều tà
bừng trên đôi má bầu bĩnh, đượm hồng. “Quanh nông trường sao toàn gặp phụ nữ
thế o?” Tôi hỏi thăm dò. Cô cười rúc rích “Thanh niên khoẻ mạnh đi tiền tuyến
hết rồi. Cũng còn mấy chú, mấy anh nhưng toàn người già yếu sức khoẻ. Trông anh
dáng thư sinh rứa mà vô được tới đây là giỏi lắm đó!”. Tôi nhìn lại bộ dạng
mình mà thầm cảm ơn cô. “Chắc người yêu cô cũng là bộ đội?”. “Dạ! Phụ nữ chúng
em không yêu bộ đội thì yêu ai?”. Câu chuyện ỡm ờ hôm đó chỉ có thế. Tôi vội
vàng quay về đơn vị khi màn đêm nhoè nhoẹt những hàng cao su. Rừng vắng lặng
bỗng ì ùm vọng tiếng pháo xa. Thật xa cuối rừng vẳng lại tiếng hát con gái, tôi
nghe rõ câu cuối cứ lặp đi, lặp lại: “Súng dân quân quyết ra tay giữ gìn, ớ...
ơ Quảng Bình... Vĩnh Linh... Quảng Bình”. Vươn vai hít đầy một hơi hương rừng
ngai ngái, khen khét, tôi chạy về lán, thầm mỉa mai cái tướng thư sinh của
mình. Ngay từ khi về đơn vị mới, tiểu đội trưởng đã ái ngại vì dáng gày gò và
nước da trắng của tôi. Quả là đáng ngại khi mỗi lần hành quân tôi đều bệt bạt
sau đội hình, anh em lúc thì giúp cái ba lô, khi thì cắp ắc quy dự phòng. Quãng
đường phía trước không phải mưa nắng vất vả thao trường nữa mà là thử thách của
lửa đạn, sống còn. Thật sai lầm khi đã trót cưới vợ. Có câu ca dao thế nào nhỉ?
“Cá thia quen chậu. Vợ chồng quen hơi”. Tôi mới chỉ bén hơi vợ mà đã ngẩn ngơ
thế này rồi. Tự nhiên ở nơi xa xôi này lại xuất hiện một cô gái giống vợ tôi.
Tôi
năng đến thăm cô với nhiều phương án. Nếu có thể hỏi được đường, tôi sẽ vù về
nhà thăm vợ mấy ngày. Trong túi tôi còn hai chục đồng tiền phụ cấp dành dụm
được. Còn nếu không may, thì cũng có cơ hội nhìn cô gái mới quen, nói chuyện
đôi hồi cho đỡ nhớ Lộc. Tôi kể cho cô nghe về quê hương trung du của mình. Về
dòng sông Lô trong vắt và ngọn núi Tam Đảo thấp thoáng trong mây. Câu chuyện
thi thoảng bị cắt ngang bởi tiếng pháo. Vùng giáp ranh này, hình như cả ngày có
tiếng pháo cầm chừng. “Cuối giường có hầm trú ẩn, nếu bắn pháo gần anh nhớ vô
với em nghe”. “Bao giờ o tổ chức đám cưới?’. Năm ngón tay đang lùa chải tóc
bỗng dừng lại giữa chừng. “Dạ... lẽ ra tổ chức rồi, nhưng em không chịu. Mình
còn trẻ vội chi. Tội nghiệp anh Dũng giục mãi, rồi cũng nghe em. Nhưng năm
ngoái anh ấy hi sinh rồi. Cả khẩu đội hứng trọn trái bom. Biết rứa...”. Tôi
thấy đau trong ngực, không cất lên được lời an ủi cô. Mãi một lúc sau, cô mới
hỏi tôi: “Còn eng. Khi mô ra Bắc mới tổ chức hỉ?”. “Tôi mới cưới được hơn tháng
nay o ạ!”. “Rứa à! Vậy mấy bữa nay theo tui mầm chi”. Tiếng cô gái nặng như
chì. Tôi thú thật: “Là tôi định hỏi thăm đường...”. “Định trốn về với vợ phải
không?”. Câu hỏi vỗ vào mặt tôi luồng gió nóng. Tôi nói dối với cô rằng không
định trốn, mà chỉ tranh thủ về nhà mấy hôm rồi quay vào. Cô khăng khăng: “Vô
răng được! Về với vợ rồi rứt ra không nổi mô”. Giọng cô chì chiết: “Thanh niên
chi mà hèn rứa! Mới vô tới đây mà đã đào ngũ rồi”. Giọng cô gái sắt lại: “Bây
chừ đứng lên. Theo tui về đơn vị!”. Suýt nữa tôi nổi cáu. Cô là gì mà ra lệnh
cho tôi. Thế nhưng tình thế đã khác đi khi tôi nhìn thấy khẩu súng trường trong
tay cô. Cô ta là tự vệ nông trường hẳn. “Kìa o! Đừng hiểu lầm. Tôi không định
đào ngũ”. “Chỉ tính chuồn về quê thôi. Nhìn tướng thư sinh của eng, lại lén lút
hỏi thăm đường, tui đã nghi rồi. Đi ra! Không tui bắn đó!”. Tình thế của tôi
thật thảm hại. Tự nhiên để một cô gái ranh áp giải về đơn vị như tên tội phạm.
Nước mắt chảy xót một bên má. Tôi khóc vì nhục nhã và thất vọng. Thấy một cô
gái giống vợ mình, rồi lân la làm quen, rồi nói ra ý định bỏ trốn và sập bẫy.
Tôi định lao tới giật lấy khẩu súng. Cô gái lùi lại sát tường, lên đạn cái
roạt. Tôi lạnh dọc sống lưng. “Tui bắn thiệt đó nghe!”. Tôi đâm cáu : “Tôi
chẳng phải đi đâu hết! Cô giỏi thì bắn bộ đội xem. Tôi đâu là kẻ sợ chết. Cô là
phụ nữ, sao cô không hiểu cho vợ chồng tôi. Chúng tôi mới sống với nhau chưa
được một tuần, mà vợ tôi thì ước ao có một đứa con. Cô tưởng tôi đến để tán
tỉnh cô hả?”. Tôi nói liền một thôi rằng thấy cô giống vợ mình nên đến làm
quen. Tôi đã tin tưởng cô mà tâm sự hết hoàn cảnh và ý định về nhà mấy ngày,
rồi quay vào tìm đơn vị. Chứ tôi đâu phải là thằng hèn như cô ta nói. Bây giờ
thì “Tiến thoái lưỡng nan”, tôi biết làm sao đây. Tôi cảm thấy bàn tay con gái
đang xoa tóc mình. Nhìn lên thấy cô gái đứng trước mặt tôi, khẩu súng biến đi
đằng nào. “Chị ấy giống em thiệt răng?’. Cô thì thào. Tôi gật đầu: “Giống lắm,
cả dáng người, cả mái tóc dài gập đôi lên cặp sau gáy. Hôm đầu nhìn thấy o,
chút nữa tôi gọi tên vợ mình rồi”. Tôi hất tay cô ra. “Thôi! Tôi đã sai lầm khi
thú thật mọi chuyện với cô. Bây giờ tôi về đơn vị. Cô không tin thì cứ cầm súng
theo”. Cô ghì đầu tôi vào ngực. “Đừng giận em! Chúng em thương các eng lắm.
Thương cháy lòng cháy dạ. Nhưng kháng chiến mà. Ai cũng bỏ về cả thì ai đánh
giặc. Mà sao còn trẻ, cưới vợ sớm rứa. Kẻ đi, người ở tội lắm....”. Tôi thấy
như vừa được cởi cái thòng lọng thít vào cổ. “Tôi chưa muốn cưới, nhưng cô ấy
cứ giục. Bảo cưới rồi có người mà chờ. Có đứa con mà nuôi cho đỡ nhớ”. Cô gái
rên lên: “Ui cha! Nghe hệt như eng Dũng! Ráng lên eng! Bỏ trốn chừ nhục lắm. Có
gian khổ, ráng mà vượt qua là hết thôi eng nờ. Mà eng cũng muốn có đứa con phải
không? Cứ đổ tội cho chị ấy! Trời ơi! Phải chi đừng có chiến tranh. Thương các
eng quá. Eng ơi!”. Tôi như nghe những lời âu yếm của Lộc. ừ! Phải chi đừng có
chiến tranh. Tôi nghĩ thế và yên tâm dựa đầu vào bộ ngực nóng hổi, gấp gáp nhịp
tim đập. Tôi choàng tay ôm lấy tấm thân cá trắm tròn lẳn. Những ngón tay cào
nhẹ trên tóc tôi, như lúc Lộc gội đầu cho chồng. Mái tóc thơm dịu mùi lá sả.
Hơi thở nồng nàn bên má tôi. Tiếng mưa rơi đều trên mái lá. Tôi mê mụ trong căn
buồng cưới của mình. Hàng cúc áo mở từ lúc nào, trắng nhẫy bộ ngực ấm. Tôi vục
đầu vào đó. Vòng tay con gái âu yếm quanh cổ. Tôi gọi nghẹn ngào: “Lộc ơi!”.
Tiếng
pháo nổ gần chát chúa. Tôi choàng dậy nhảy xuống đất. Cô gái nhao theo choàng
chiếc áo lính lên người tôi, hối hả giục: “Về đơn vị đi eng! Ráng theo kịp đồng
đội nghe. Em hứa rằng eng sẽ có một đứa con!”. Tôi cắm cổ chạy về khu lán đơn
vị. Trời đã ngớt mưa. Văng vẳng tiếng còi báo động. Vừa về đến nơi, đã thấy
loang loáng ánh đèn pin và tiếng í ơi gọi tên tôi. Tôi đứng nghiêm trước tiểu
đội trưởng và hứng trọn một bạt tai: “Đi đâu bây giờ mới về?” “Thưa... em bị
đau bụng”. “Khẩn trương vào hàng!”. Một đồng đội trao trả tôi chiếc máy vô
tuyến và ba lô. “Nhanh lên! Chậm mấy phút rồi. Tưởng mày đào ngũ!”. Hành quân
về phía Nam
được hơn tiếng đồng hồ, tôi mới định thần nhớ lại sự việc vừa xảy ra đêm qua.
Tôi gặp cô gái nông trường có dáng người giống vợ mình, định hỏi đường trốn về
nhà và suýt nữa bị dong về giao cho đơn vị. Cô còn dâng hiến cho tôi sự trinh
trắng. Rõ ràng cô ấy còn trinh trắng. Lúc cô ưỡn người đau đớn giống y như Lộc,
vợ tôi đêm tân hôn. Tình yêu hay sự tha thứ? Hay sự hi sinh? Tôi không thể hiểu
ngay lúc này. Nhưng rõ là cô đã hứa cho tôi một đứa con. Nước mắt lại mặn chát
ở khoé miệng. Có nghĩa là xong chiến dịch, tôi sẽ quay lại tìm cô. Nhất định
thế. Tôi bỗng hốt hoảng. Cô ấy tên gì? Cả tôi và cô gái còn chưa kịp hỏi tên
nhau.
11. NGƯỢC RỪNG
Truyện ngắn: Phùng Phương Quý
Gặp nhau ở hội Đền Hùng, Tống “đại ca” mừng quýnh. Hắn
sồng sộc kéo tôi vào một nàh hàng ở cổng đền, ngoắc tay gọi như lệnh vỡ: “Một
tim cật xào, chục trứng vịt lộn và bia Hà Nội nhá!”. Hắn vốn thích món tim cật
xào. Tôi bảo: “Gọi nhiều thế! Ngày hội, các em chém đẹp lắm đấy”. Hắn vỗ vỗ vào
chiếc túi thổ cẩm đeo bên sườn. “Yên trí! Tôi vẫn là đại ca mà. Tuy bị chết mất
mấy năm, giờ phong độ lại rồi. Tý nữa về Việt Trì, xem chỗ nào hay hay ta hò
hát tí nhỉ?”. Tôi ái ngại nhìn chiếc túi căng phồng, hỏi: “Vẫn buôn gỗ à?”.
“Thì có nghề gì nữa! Nhưng àm ăn chân chính rồi, không làm lâm tặc nữa. Ông vợ
con gì chưa? Con Vẻ trên ấy chờ ông mãi. Nó xinh thế mà bố lặn một hơi”. “Chết!
Cô ấy chờ…tôi à? Cũng định lúc nào tiện công tác qua, ghé thăm bà cụ. Mười năm
rồi còn gì”. Tôi nói cho qua chuyện, nhưng Tống vồ ngay lấy. “Đang hội hè, ta
đi luôn. Sẵn xe máy, vù độ 4 tiếng là tới nơi”. Tôi ái ngại. “Mình còn chưa
chuẩn bị gì…”. Tống sỗ sàng giật cái túi của tôi, kéo xoẹt khóa. “Xem nào! Máy
ảnh này. Sổ sách bút mực này. Đủ rồi! Quần áo lên trên ấy mua. Tôi kiếm cho mấy
bộ đồ Tàu vừa rẻ, vừa đẹp. Đi đâu có xe máy của tôi. Khi về khắc có tiền tàu xe
cho ông. Được chưa?”. Tính tôi vẫn bốc đồng như ngày xưa. Thế là cuốn theo hắn.
Mười năm trước tôi lên bản Muối, cũng vào ngày chính
hội Đền Hùng. Ở phía cổng phụ đi ra ga Tiên Kiên, có một cô gái trẻ ôm khư khư
cái túi thổ cẩm, lơ ngơ đứng bên đường. Nhìn cung cách, tôi biết đó là người
miền núi. Nhiều năm công tác trên rừng, tôi nhận ra ngay mấy sơn nữ về đồng
bằng, dù các nàng có diện quần áo Kinh. “Về đâu noọng?”. Mắt tôi dán vào cần cổ
trắng hồng lấm tấm mồ hôi của cô gái. “Mình về Lào Cai thôi!”. Rõ rồi. Nói
tiếng Kinh còn ngọng. Theo lời cô gái bập bõm kể. Vẻ, tên cô gái là người Tày
bản Muối, cùng với hai cô bạn bán mỗi người hai chục cân gạo nếp, lấy tiền đi
chơi hội Đền Hùng. Các cô chỉ nghe nói chứ biết hội thế nào. Họ đi xe ôm ra ga
Bảo Hà, đi tàu hỏa về ga Tiên Kiên, vào Đền Hùng. Mùng chín tháng ba đúng ngày
chủ nhật, đông người quá nên Vẻ lạc mất hai bạn. Qua một đêm lang thang không
ngủ, sáng ra cô tìm ra đây đứng đợi, mong trên đường về họ sẽ nhìn thấy mình.
Cả buổi sáng trôi qua cô không gặp được ai. “Sao không ra ga mà về luôn đi.
Biết đau bạn em về trước rồi”. “Mình hết tiền rồi. Phải chờ chúng nó thôi”. Cô
gái thật thà nói. Từ đây về Lào Cai gần hai trăm cây số, thân gái dặm trường mà
không một đồn dính túi. Thật đáng lo ngại. “Mình cũng đi lào Cai đấy. Hay cùng
đi cho vui?”. Tôi đột ngột đưa ra lời đề nghị, đầy phiêu lưu. “Nhưng mình không
có tiền!”. Cô gái tiếp tục khẳng định. Tôi trấn an. “Mình cho em vay tiền. Về
đến nhà trả mình cũng được”. Vẻ reo lên: “Úi! Thế thì tốt quá!”. Cô gái thực
thà đi theo tôi. Chúng tôi không ra ga nữa mà ra quốc lộ 2 đón xe khách.
Đến phố huyện thì trời đã tối. Vẻ nhất định không chịu
vào quán phở. “Sắp về tới nhà rồi mà”. Cô nói thế, nhưng chúng tôi còn phải đi
bộ gần chục cây số nữa. Đường rừng dốc cao dốc thấp, tôi đói mềm, cố theo kịp
Vẻ. Nhìn dáng cô chúi về phía trước, chân phăm phăm bước, tôi than: “Đúng là hổ
về rừng!”. Đường gập ghềnh những đá là đá, xung quanh núi như đặc quánh trong
màn đêm. Tiếng con chim lạ kêu “boóc…boóc” như vọng từ vực sâu, hang thẳm lên.
Chân tôi mỏi rã qua một cái dốc dài. Đang định kêu Vẻ ngồi nghỉ thì may quá,
hết dốc, đường bằng phẳng dễ đi hẳn. Xa xa, thấp thoáng ánh đèn dầu. Ngay dưới
chân chúng tôi, rào rào tiếng nước suối. “Đến bản rồi!”. Vẻ kêu lên. Tôi nhẹ cả
người. Cô bảo tôi đứng chờ rồi rẽ vào ngôi nhà cạnh đường. Lát sau có tiếng đàn
ông hỏi vọng ra: “Khách đâu?”. Rồi ánh đèn pin quét ngang mặt tôi, dừng lại hơi
lâu trên cái ba lô lính. Tôi lạnh gáy, lùi lại một bước đề phòng, cảm thấy hối
hận vì tính bốc đông của mình. “Người dưới xuôi à?”. Tiếng đàn ông hách dịch.
“Vâng ạ! Cháu chào bác!”. Tiếng cười phá lên, hơ hớ. “Bác cháu gì. Tôi còn trẻ
bố ạ. Vào trong ấy chơi, mai ra uống chén rượu nhá. Tôi cũng người miền xuôi
đấy”. Người đàn ông trao cho Vẻ chiếc đèn pin. May quá, lại gặp người miền xuôi
ở nơi rừng xanh núi đỏ này.
Đó là lần đầu tôi gặp Tống “đại ca”. Hồi đó hắn là
trùm buôn gỗ kiêm chủ quán tạp hóa ở bản Muối. Đêm ấy, chúng tôi về đến nhà Vẻ
trời đã khuya lắm. Ngôi nàh sàn cảu cô rộng như cái hội trường dưới xuôi. Bà mẹ
nằm trong màn hỏi vọng ra: “Về rồi à?”. Giữa nhà, ba cây củi vẫn chụm đầu vào
nhau cháy tí tách. Tôi đói mềm, những chỉ lùa được mỗi bát cơm nương dẻo dính,
ăn với măng đắng chấm mẻ. Tôi vốn không ưa cơm nếp. Chui vào chiếc vỏ chăn thổ
cẩm mùi hăng hắc, tôi tiếp đi trong tiếng gió núi ù ù dưới sàn nhà và tiếng hát
khe khẽ của Vẻ từ buồng trong vọng ra. Chắc cô vui vì đã về đến nhà, còn dắt
theo được một thằng trai Kinh ngớ ngẩn, tốt bụng.
Khi trở lại với trang phục của một cô gái Tày, trông
Vẻ đẹp hơn so với buổi sáng tôi gặp ở đền Hùng. Buổi sáng, cô đưa tôi chiếc đèn
pin, bảo có ra quán thì trả cho anh Tống. Hôm nay cô phải đi phát một cái nương
mới. Cổ choàng chiếc khăn sọc màu xanh đỏ, mặc chiếc áo chẽn ngắn màu xanh,
chiếc váy vải đen bó chặt đôi hông nở nang, Vẻ như mạch nước ngầm ngọt mát giữa
nắng hồng. Tôi bỏ ý định ra thăm nhà Tống, theo nỗi đam mê cuốn lên núi cùng
Vẻ. Buộc vỏ con dao ngang hông, đeo chiếc túi vải có ít đồ dùng cá nhân, tôi
hăm hở đi. Dốc, dốc miên man, càng lên cao dốc càng dựng ngược. Tim tôi đập
nhanh đến ngẹt thở. Đằng trước thấp thoáng đôi bắp chân trắng của Vẻ, thoăn
thoắt trèo qua những phiến đá lởm chởm, bước qua những đoạn dốc trơn tuột. Mắt
tôi dán vào vệt trắng ấy, đi theo như bị bỏ bùa.
Hóa ra công việc phát nương chẳng dễ dàng gì. Đi từ 6
giờ sáng đến hơn 10 giờ mới tới khu rừng định phát nương. Vẻ đi đâu một lúc,
rồi mang về ống bương nước. Tôi cảm thấy nước suối ngọt ngon bất kỳ loại nước
giải khát nào dưới xuôi. Nhìn rừng bương bạt ngàn, tôi nhẩm tính phải ba ngày
hai đứa mới phát xong khoảng nương nhỏ. Ý nghĩ về một cuộc phiêu lưu mới làm
tôi phấn chấn, khi đưa mắt nhìn quanh thấy một cái lều nhỏ đủ chỗ nghỉ đêm cho
hai người.
Tôi hăm hở chém vào cây bương to nhất. Con dao cực sắc
và chỉ một phút cây bương bị đốn ngã. Cây thứ hai; cây thứ ba…Vẻ vẫn chưa thèm
đụng dao. Cô đừng nhìn tôi cặm cụi làm việc, miệng tủm tỉm cười. Một lúc sau Vẻ
bảo tôi: “Chặt thế không được đâu. Cả tuần mới xong cái nương đấy”. Cô vung dao
làm mẫu cho tôi. Mỗi gốc bương, Vẻ chỉ chặt có ba nhát quanh gốc, đường dao
nhanh và mạnh, nhát chặt ngậm trong gốc và cây vẫn đứng nguyên. Vẻ chuyển sang
cây khác, cứ hàng ngang như thế. Đến một độ dài chiều ngang thích hợp, cô
chuyển lên hàng cây phía trên. Tôi làm theo cô, vừa làm vừa cố nghĩ xem những
vạt cây chặt ngậm kia sẽ đổ bằng cách nào. Có lẽ phải chờ một cơn gió lốc hoặc
bão lớn. Cuối chiều, Vẻ chọn một cây gỗ lớn đứng chênh vênh phía trên vạt
nương. Cô vung rìu chặt ngang tầm thắt lưng. Rìu vung loang loáng, mảnh gỗ bay
tứ tung. Vẻ không chịu cho tôi chặt thử, mà kéo sang một bên, rồi vung những
nhát rìu cuối cùng. Cây gỗ cựa mình răng rắc, rồi đổ ầm xuống, quật ngang ngọn
cây rậm rạp dài thượt xuống vạt bương phía dưới. Những cây bương đã chặt ngậm
chỉ chờ có thế, thi nhau đổ lớp trước đè lớp sau rầm rập như pháo nổ. Chỉ một
lúc, vạt nương vương vức hiện ra giữa khoảng rừng rộng, ong óng những thân
bương nằm xếp lớp. Vẻ nói nắng thế này, cũng pahỉ hai tháng nữa mới đốt nương
được. Tôi nhìn đám bương nằm ngàn ngạt, toàn những cây loại A, nhớ tới thời
gien theo anh bạn đi buôn cây nguyên liệu giấy, với những xe bương vầu nhỏ chưa
bằng nửa những cây nằm ở đây. Chà chà! Cả chục chiếc xe máy nằm phơi ra giữa
rừng, chờ bị đốt thành than.
Chúng tôi xuống chân núi bên này, thì hoàng hôn cũng
xuống ngang núi bên kia, hắt ráng vàng hồng rực. Những ngọn cây trên đỉnh núi
phụ một lớp bụi vàng pha đỏ. Vẻ đứng dưới suối, khuôn mặt đỏ hồng lấm tấm nước,
ánh mắt cười lấp lóa tia nắng nhảy nhót trên dòng nước trong. Tấm thân sơn nữ
tròn lẳn, chắc nịch hằn sau chiếc áo xanh đẫm mồ hôi, tạc những đường cong
huyền ảo vào bóng chiều của núi rừng. Tôi nhìn cô như người mơ ngủ: “Vẻ à! Cái
sàn nhà em nó kêu ghê quá, ban đêm anh chẳng dám đi đâu cả”. Thấy Vẻ đỏ bừng
đôi má, vùng bước lên phía trước, tôi luống cuống chạy theo, trán đập phải cành
cây thấp chắn ngang đường. Tôi ngã phệt xuống đất, đầu đau điếng, hàng trăm con
đom đóm bay lả tả. Vẻ quay lại, phì cười. Cô giơ tay kéo tôi dậy, giọng nói như
gió thoảng qua bên tai. “Đêm…có đi đâu. Giữa sàn nhà có cái dầm gỗ đấy”. Tôi
không hiểu gì về cái dầm gỗ nào đó, nhưng nhìn thấy ánh mắt đồng lõa của cô.
Tống “đại ca” đổ đầy bình xăng, giục tôi lên xe. “Hôm
nay ông đi Min –khù- khờ với tôi cho nó dân dã nhé. Đúng là lên voi xuống chó.
Đận trước ông lên, tôi chở ra bến xe bằng con Su mới. Lần này…”. Hắn cười hơ
hớ. Tôi động viên hắn cho có chuyệ: “Sông có khúc, người có lúc. Ông ạ”. Tống
vỗ mạnh lên đùi tôi như đồng ý, rồi vào số lao vút đi. chiếc mũ dạ sĩ quan cũ
trùm ngang mắt, cái gáy chờm tóc, mắt không kính, Tống “đại ca” phơi mặt ra với
gió bụi. Trông hắn giống một trang hảo hán trên lưng ngựa sắt. chiếc xe lao vun
vút, lượn những đường cua rất táo bạo. Có thể nói hắn là tên chạy xe máy bạt
mạng. Gạt nước mắt ràn rụa vì gió, tôi vỗ vào vai hắn: “Chạy chậm thôi ông
tướng”. Hắn gào lên: “Yên trí! Đây quen chạy kiểu Ét- bê-xê (SBC) rồi. Đường
này quen lắm, đừng sợ”. Tôi đành ôm lấy tấm lưng phàn phạt đằng trước, phó mặc
cho sự may rủi. Chiêc xe như bị hút xuống dốc thẳm, lạng vèo sát vách đá, bên
dưới là vực sâu. Cảm giác cưỡi trên lưng cọp, lạnh buốt sống lưng. Tôi nhắm
mắt, cố nghĩ đến chuyện khác cho đỡ sợ.
Cái đêm hôm ấy, hình như là đêm thứ ba ở nhà Vẻ, tôi
cũng có tâm trạng hồi hộp lo lắng như lúc này. Trời tĩnh lặng, gió núi ngủ yên
không ồn ào chạy dưới sàn nhà nữa. Tiếng chày giã gạo nước ngoài con suối uể
oải từng nhịp đều đều ào …thịch, ào…thịch. Tâm trí tôi cứ bị ám ảnh bởi những
đường cong rực lửa và cái nhìn đồng lõa của Vẻ chiều bên suối. Tôi chui ra khỏi
màn, , bước chân hướng về phía buồng Vẻ nằm ngủ. Tiếng sàn nhà bỗng rên lên.
Tim tôi thót lại vì lo sợ. Rón rén đặt một bươc chân khác, sàn nhà vẫn kọt kẹt
phản đối. Tôi ngồi thụp xuống, căng tai nghe ngóng động tĩnh trong nhà. Trong
lúc quờ quạng, bàn tay tôi đụng phải ciếc dầm gỗ chạy dọc theo sàn nhà, đỡ hai
đầu những tấm bương lát. Lúc đó tôi chợt nhớ câu nói vu vơ của Vẻ: “Giữa sàn
nhà có cái dầm gỗ đấy!”. Máu rần rật trên mặt, tôi liều lĩnh bò cả chân lẫn
tay, men theo cái dầm gỗ.
Vẻ khẽ đầy tôi ra. Môi tôi phớt nhanh qua đôi má nóng
rực của cô. Vật gì đó trong túi áo tôi rơi cạch xuống sàn. Bên ngoài có tiếng
ho khan. Bước chân bà mẹ rung động cả mấy gian nhà. Tiếng sàn nhà lúc ấy chẳng
khác gì tiếng đại bác nổ vào lưng tên “kẻ trộm” đang cuống cuồng trong buồng cô
gái. Bàn tay Vẽ níu tôi trở lại. Còn tôi cùng vằng trở ra. Khốn khổ thay! Sàn
nhà lại rên lên. Tôi đứng như trời trồng, tiến lui đều dở. Vẻ bổng bước ra.
Chiếc đèn pin loáng qua chỗ tôi nằm. Bước chân Vẻ sầm sập về phía cửa. May quá,
lợi dụng tiếng bước chân ấy tôi lui vào màn.
Tôi đang rửa mặt thì trông thấy bà mẹ Vẻ đứng tần dưới
sàn, ngay chỗ buồng cô nằm. Trong tay bà là chiếc bật lửa gas màu đỏ của tôi.
Bà cụ nhìn cái vật lạ lẫm rồi nhìn lên chỗ con gái nằm, như tính xem chiếc bật
lửa rơi từ phía nào. Da mặt tôi dày lên, nóng ran. Không kịp chờ Vẻ ngoài suối
về. Tôi vào nhà xách ba lô chiồn một mạch. Tống “đại ca” thấy tôi ra chơi, nhất
định co kéo ở lại nhà hắn thêm hai ngày nữa. Hắn cười nham nhở “Ông ở trong ấy
ba ngày, bị cô Vẻ bắt mất bảy vía rồi hả? Gái Tày thế nào? Khá chứ? Hớ… hớ… tôi
cũng bị gái Tày bắt cóc đây. Người lính cuối cùng của trung đoàn 171 ở lại bản
Mường vì tình yêu đấy đồng hương ạ!”. Tôi không có hứng tào lao chuyện ấy với
Tống. Lòng cứ lo lắng mãi chuyện trong nhà Vẻ. Những con trâu cần mẫn kéo gỗ ra
nhưng không thấy Vẻ đâu. Tôi chỉ những hộp gỗ xẻ vuông vức để la liệt hai bên
đường, hỏi Tống “Suốt từ đây lên Muối, chỗ nào có gỗ là của tôi. Chưa kể gỗ
trong rừng chờ nắng lên mới kéo ra được. Cánh Hải Phòng mỗi tuần lên đây hai
chuyến. Cũng tàm tạm”. Cái tàm tạm ấy đủ cho Tống ngày nào cũng hai buổi cơm
rượu đãi khách. Cả khách làm ăn lẫn khách kéo gỗ trong bản. Giao gỗ xong cho
Tống, những người dân kéo gỗ, toàn những người Tày, người H,mông
quan vùng, đều ghé vào quán của hắn mua vài cân thịt bèo nhèo, vài lạng cá khô,
vài gói mi ăn liền và lúc nào cũng kèo thêm chai rựơu trắng. trong bản lúc ấy
cũng lay lắt những sợi khói bếp bay lên
từ những mái nhà sàn lợp cọ. người dân thi nhau chặt gỗ, xẻ gỗ. Gỗ kéo ra ngày
một nhiều, còn cuộc sống chẳng thấy khá lên chút nào.
Tống trở thành đầu nậu gỗ, trấn giữ một vùng. Nhờ tài
ngoại gia và cả cái khôn khéo biết chia “lộc rừng”, hắn trụ được ở đây. Người
ta gọi hắn là Tống “đại ca” vì tính coi trời bằng vung và thói tiêu tiền như
đốt lá rừng.
***
Mười năm sau.
Chiếc Min đồ sộ trở về phố huyện khoảng 18h. Tôi bị
nhồi đến ê người vì xe chạy nhanh. Tống không về bản ngay mà còn la cà vài chỗ
quen. Vừa tranh thủ thông báo giá gỗ, vừa khoe có khách “nhà báo” lên chơi. Tắt
hẳn mặt trời mới về đến nhà. Thế là hai lần tôi đến bản Muối đều vào lúc trời
tối. Nhưng lần này không còn âm u nữa. Làng bản sáng bừng ánh điện. Đường sá
như rộng hơn. Tiếng hát vọng ra từ một quán karaoke ồm ồm khen khét. Có tiếng
phát thanh viên đài Truyền hình Việt Nam đang chuyền đi chương trình thời sự.
Cái quán lợp lá cọ của vợ chồng Tống ngày trước, giờ dựng lại vững chăc,lợp
ngòi đỏ. Một bàn bi-a đông nghịt trẻ con, lách cách tiếng chọc bi và tiếng cãi
nhau chí chóe. Con suối phía dưới đường không còn rào rào chảy, phải lắng nghe
thật kỹ mới thấy tiếng rì rầm, khe khẽ.
Sáng hôm sau trời sáng, tôi mới thấy hết sự thay đổi
của làng bản sau mười năm. Mái ngói đỏ, những ngòi nhà trệt làm vắng hẳn mái
nhà sàn cao rộng. Cái bếp củi lem nhem của vợ chồng nhà Tống biến đi đằng nào.
Hắn bảo vợnấu mì trứng cho chúng tôi ăn bằng chảo điện. “thế nào! Thay đổi
nhiều không?”. Hắn hỏi tôi khi miẹng thổi phù phù vào bát mì nóng. “Chắc vừa
hoàn thành chương trình 135 chứ gì?”. Tống bảo tôi, vẻ tự mãn: “Tí nữa ông đi
quanh bản xem, rồi chụp lấy vài kiểu ảnh mà đăng báo. Này! Bản Muỗi có chiếc tủ
lạnh rồi nhá. Toàn samsung mới tinh. Quán bây giờ nhiều quá, tôi xoay sang dịch
vụ bi-a. Mình phải đi trước thời đại mới được”. Lời khoe khoang không có gì
thái quá. Đi một vòng, tôi thấy bản Muõi thay đổi đến không nhận ra. Trong mấy
quán, thấy đủ các loại bia, từ bia lon đến bia chai, bia hơi đóng chai nhựa.
Các thứ nươc giải khát bày la liệt. Mấy cô gái trẻ ăn mặc mo đen chẳng thua gì
gái thị trấn, lại ngồi ăn sữa chua như mỏ khoét. Mấy chiếu phỏm râm ran tiếng
bọn con trai cãi nhau tiền nợ. Bên bàn
thịt lợn, cô gái mặt mũi dễ coi, cổ và tây đeo đầy vàng. Cô cầm một tập vé xổ
số cào, mời tôi: “Anh ghi một con đề đi. Hôm qua đề về 06, cô giáo Hải trong
trường tiểu học trúng mười tám nghìn, ăn ngon triệu tư”. Tôi cười lắc đầu: “Anh
không có tiền!”. Cô gái bĩu môi: “Có mà nhát chết! Trông người thế kia mà lại
bảo không có tiền”. Trước sân quán, toàn xe máy đẹp dựng san sát. Dù là xe Tàu
thì cũng làm thay đổi bộ mặt của bản Muối heo hút. Tôi thấy sựthay dổi đến
chóng mặt kia hình như không ảnh hưởng đến Tống. Hắn vẫn buôn gỗ, một nghề chỉ
có hắn mới làm được ở đây. Có chăng dọc đường bây giờ không xếp những khối gỗ
xẻ vuông vức nữa, mà toàn gỗ mít hoặc xoan trồng từ vườn nhà dân. Những con
trâu cúi gằm mặt kéo gỗ ra đường, những gánh cây giống xanh mướt kiũ kịt trên
vai mấy cô gái bản đi ngược vào rừng.
Hai hôm sau tôi mới đủ can đảm đến thăm nhà Vẻ. Lối
vào còn nguyên hai gốc mận to, nhưng ngôi nhà sàn không thấy đâu cả. Trên nền
cũ là ngôi nhà ngói ba gian kiểu nhà người Kinh. Cái cối máng gỗ mỗi buổi sáng
Vẻ thường giã gạo bị ném ra bờ ao. Tôi hụt hẫng vì mất đi quá nhiều kỷ niệm từ
bóng dáng lừng lững của ngôi nhà sàn xưa. Bà mẹ chẳng già đi bao nhiêu, chỉ hơi
còng lưng. Bà trách tôi: “Sao hồi đó chụ (chú) bỏ đi thế? Con Vẻ về cứ căn vặn
mẹ mãi. Chụ có vợ chưa? Con Vẻ bắt được thằng chồng người Yên Bái rồi. Trẻ lắm.
Kém con Vẻ bốn tuổi đấy. Nhưng con Vẻ bảo chỉ thích bắt chụ thôi. Nó vẫn nợ chụ
ba chục nghìn tiền vé xe. Hôm nay nó đi vắng, mẹ trả cho chụ”. Tôi rớm nước
mắt. Buồn nhỉ! Thì ra ngày ấy chẳng có chuyện gì ghê gớm cả. Thế mà tôi vội bỏ
chạy như tên ăn cắp bị bắt quả tang. Lẽ ra…
Tôi nhận mấy tờ bạc từ tay bà cụ rồi lại giúi vào tay
bà. “Con biếu mẹ mua trầu cau”. Túi kẹo, bà đem chia cho trẻ con, còn túi mì
chính được cất cẩn thận trong tủ bếp. “ Chờ hôm nào con Vẻ về, mẹ chia cho nó
một nửa”. Đêm đó tôi ngủ lại chơi với bà cụ và cậu út. Thằng Văn ngày nào bé
tí, nay đã có người yêu. Tối, nó kéo bạn bè về nhà uống rượu, rồi lập chiếu
phỏm ngồi đến sáng. Tôi không ngủ được, ra sân đứng nhìn về phía ngọn núi xanh
mờ, nơi mười năm trước cùng Vẻ phát nương. Tôi cố tìm một âm thanh quen thuộc
mà không nhớ ra. Đúng rồi! Đó là tiếng cối giã gạo nước ở đầu suối. Đêm nào nó
cũng vọng đều đều ào…thịch, ào…thịch. Cả
bản bây giờ có ba chiếc máy xay xát, vừa chạy điện, vừa chạy dầu.
Hình như tất cả đã trở thành quá khứ.
Lào Cai tháng 5-2001
12. TRUNG THU CHO NGƯỜI LỚN
Đêm trung thu mà trời lại mưa. Trăng rằm như trái bưởi
vàng nhạt treo lơ lửng một lúc trên ngọn dãy tre làng, rồi bị đám mây đen sũng
nước cuốn chặt lấy.
Lão Chù kéo chiếc chõng tre ra ngoài hiên nằm hóng
mát. Căn nhà nhỏ chật hẹp tù mù ánh đèn dầu, vo vo tiếng muỗi. Lão sốt ruột
nhìn ánh đèn hắt qua cửa sổ, giọt gianh lấp loáng nước mưa rơi xâu thành những
chuỗi cườm thuỷ tinh đục.
“ Trời với chả đất! Lại nhè đúng đêm trung thu mà
mưa”. Vậy mà trong làng vẫn có ba bốn nơi vang vang tiếng trống múa sư tử. Ấy
là lũ trẻ các đội sư tử đang tập rượt lần cuối, trời mưa thì mưa nhưng chúng không
thể quên Tết trung thu. Chúng tụ tập chỗ nào đấy, nôn nóng nện trống.
Tùng tùng! Cắc
tùng tùng! Tùng tùng! Tùng tùng! Tùng tùng!
Tiếng trống đập vào tiếng mưa nghe bùng bục, tưng tức.
Bữa cơm chiều đã ngót từ bao giờ. Nửa bò gạo, nồi canh
chuối xanh lõng bõng không mỡ, không mì chính là bữa cơm đón trung thu của lão
Chù. Cơn đói gặp cơn mưa, cồn cào. Tiếng giọt gianh rơi tành tạch. Tiếng trống
sư tử vẳng đến bùng bục. Mấy hạt mưa bắn văng lên chõng thấm vào đầu mỏm cánh
tay cụt, cảm giác lành lạnh chạy thẳng vào lồng ngực làm lão rùng mình.
Tiếng trống lôi tuột ý nghĩ của lão về thời thơ ấu xa
lơ xa lắc. Những Tết trung thu buồn tẻ bởi bà cô nghèo lúc nào cũng nợ lút cổ.
Thằng cu Chù hăm hở chạy theo đám múa sư tử và rước đèn ông sao, một bên tay áo
rỗng bay phất phơ, tay trái cố giương sao chiếc cần câu tre buộc lủng lẳng con
cá cắt bằng mo nang. Năm tám tuổi, Chù theo bà cô ra sân kho Hợp tác xã xem lăn
lúa. Một con nghé mới vực dùng dằng không chịu kéo liền bị một roi vút vào
mông, sợ hãi chạy lồng ra khỏi bãi lúa. Tiếng trục gỗ lim cắt từ cột đình nặng
nề lăn ầm ầm. Thằng Chù bị xô vào lưng, ngã sấp. Nó hét toáng lên vì sợ hãi và
đau đớn. May trục gỗ lim chỉ nghiến nát cánh tay phải. Năm Chù 15 tuổi, bà cô
ốm nặng rồi qua đời, cậu mồ côi lần thứ hai…
Tháng trước lão Chù đột nhiên bị cắt khoản trợ cấp xã
hội mà Nhà nước cho hưởng hơn chục năm nay, trị giá bằng một yến thóc. Với
người bình thường, số tiền đó đủ một lần uống bia hơi thoải mái, nhưng với lão
thì đó là cả tháng ăn, dù là ăn cháo, ăn độn khoai sắn. Ông Hải cán bộ Thương
binh- Xã hội mỗi lần thấy lão thập thõm bước vào Trụ sở uỷ ban xã là lại cau
có, đám râu quai nón xù cả lên như Trương Phi. “ Tôi đã bảo ông rồi. Đi mà hỏi
nhà nước. Nhá! Tôi có in ra tiền đâu mà cấp cho ông được. Còn bao nhiêu trường
hợp khác họ có thắc mắc đâu!”. Lão Chù rúm cả người, lưỡi tụt vào họng, chả
biết thưa gửi thế nào. Lão lập bập: “Thưa ông! Thưa…ông!”. “ Có thắc mắc gì, về
làm đơn gửi lên huyện, nhá! Mất việc quá”. Lão lủi thủi quay ra. Tuy sợ nhưng
vẫn lủng bủng trong bụng. Người gì mà như Trương Phi. Cứ thấy mặt mình là nhá,
nhá. Muốn ăn thịt lão à? Toàn xương nhai thế đếch nào được. Nỗi thất vọng mơ hồ
níu bước chân lão nặng trĩu. Ra cổng uỷ ban lại chạm ngay phải cái mặt choắt
lưỡi cày của tay Thẩn. Tay nó ve vẩy tờ giấy, cất giọng the thé hỏi đểu: “ Lại
đi xin ăn hở? Đã bảo rồi, lấy vợ đi cho đỡ khổ. Con mẹ sứt môi nhà tớ đẻ rồi,
con trai nhá. Chọn mãi mới được cái tên để khai sinh đây”. Lão Chù sững lại,
ngạc nhiên. Thằng khoèo tay này mà cũng có con được á? Nó chỉ được cái chịu khó
chứ làm chó gì có con! Cái mặt hí hửng có ghét không. Lão chợt tủi thân. Mình
nuôi mồm chẳng xong, ai dám vợ con nữa cho khổ. Vợ thì ai chả muốn, nhưng thời
trẻ còn chẳng nước mẹ gì nữa huống hồ bây giờ. Năm nay mới ngoại năm mươi, thế
mà lão xơ xác như người bảy mươi tuổi.
Hồi thanh niên, đã một lần cơ hội lấy được vợ đến với
Chù. Thế mà để vuột mất. Mười chín tuổi, Chù đi làm thuê cho nhà chị Sậu goá
chồng hơn cậu mười tuổi. Thấy Chù chịu khó, hiền lành, chị goá thương hại bảo sang
bên ấy chăn bò, thả vịt cho chị. Sau hai người thân tiết hơn, Chù gần như ở hẳn
bên nhà chị Sậu, “gặp cơm thì ăn, gặp việc thì làm”. Chị Sậu có gánh hàng khô ở
chợ, sáng đi tối về, việc nhà giao hết cho “cậu Chù”. Đêm ấy cũng Tết trung
thu, đứa con gái nhỏ của chị Sậu chạy đi xem rước đèn ông sao. Chù ngồi loay
hoay với chiếc đài tự lắp chạy bằng pin muối. Có tiếng chị Sậu gọi ngoài giếng:
“Cậu Chù ơi! Lấy giúp chị cái chậu giặt”. Chù thập thóm xách cái chậu nhôm ra
giếng, chết sững khi nhìn thấy tấm thân trần truồng ngồn ngộn của chị goá dưới
trăng. Bàn tay nhớp nháp lạnh của chị goá nắm cánh tay còn lại của Chù đang run
như thằn lằn đứt đuôi, kéo lại gần. Chị cười khẽ: “Thế nào mà ngẩn ra như ngỗng
ỉa thế. Chưa nhìn thấy bao giờ à? Chị bảo này…”. Đầu óc Chù choáng váng, đôi
mắt bị thôi miên vào tấm thân trắng nhồng nhỗng trước mặt. “ Cậu có thương chị
không?” Gật. “Sang đây ở hẳn với chị nhé?” Lại gật. Tai anh chàng ù ù, lơ mơ
hiểu sự thể sẽ khác chứ không phải chuyện ở nhà hay sang bên này. Chù nghe loáng
thoáng những tiếng nhé, nhé và hơi thở hổn hển của chị goá. Chù giật thót người
khi bị bàn tay nhớp nháp thọc vào chỗ kín. Nỗi hoang mang đầu đời của chàng
thanh niên và sự ham muốn cùng cực của người đàn bà goá chạm vào nhau như điện
giật. Chù co rúm người lại, nhưng không dám bỏ chạy. Sau một lúc vần vò, chị
Sậu rên lên: “ Giời ạ! Sao cứ như dải khoai héo thế này?! Cụt tay chứ không lẽ
cụt cả…”. Một cái đẩy sỗ sàng làm Chù ngã bệt đít xuống nền giếng. “Đồ vô tích
sự!”. Chị Sậu rủa, rồi vớ lấy gầu nước dội ào ào lên tấm thân rừng rực.
Lão Chù cảm thấy đau nhói nơi đầu mỏm cánh tay cụt.
Bàn tay trái vỗ bộp vào chỗ đang ngứa
ran, một con muỗi nặng nề vo ve bay lên. Lũ muỗi đói không thương hại kẻ đồng
cảnh. Lão Chù vừa xoa chỗ ngứa vừa nhớ đến vẻ mặt đăm chiêu của ông trưởng
phòng Tổ chức xã hội huyện.Ông ta trẻ hơn và cũng tử tế hơn ông Hải râu ở xã. “
Bác cứ yên tâm. Để đơn lại chúng tôi xem xét đã”. Nhìn mấy chai nước khoáng
trên bàn lão Chù thấy khát khô cả cổ mà không dám xin một cốc, lão vừa đi bộ
6-7 cây số dưới trời nắng để đội đơn lên huyện.
Thất thểu về đến nhà, lão suýt ngất xỉu. Thôi! Chẳng
đi đâu nữa nhá. Đi bộ mãi thế này có ngày chết dọc đường. Còn cơ cực vất vả hơn
đi xin ăn. Mỗi khi hết gạo, lão thường xách túi đi quanh mấy trạm xát lúa trong
xã, mỗi nơi cho một vốc, cũng được mấy bơ. Nhục một tí vẫn còn hơn đội đơn vào
cửa quan.
Tiếng trống sư tử bỗng dồn dập, vang hơn. Mở mắt ra,
lão Chù thấy mấy vệt sáng xuyên qua cành ổi tạo thành những đồng xu vàng bạc
trên sân. Trời đã ngớt mưa làm lão mừng rơn như con trẻ. Thế là vẫn kịp đi rước
đèn trung thu và múa sư tử. Cả làng có ba đội múa sư tử. Bọn trẻ bây giờ gớm
lắm, chúng sẽ đèn đuốc giục trống vòng quanh khu chợ, vì ở đó có nhiều nhà khá
giả. Sư tử đến múa trước nhà, thế nào cũng được gia chủ thưởng cho năm ba nghìn
và bánh kẹo, hoa quả. Sau đó chúng kéo vào các xóm, từng nhà, từng nhà sẽ được
đón sư tử và tất nhiên phải có quà cho chúng. Mãi rồi thành lệ, cánh múa sư tử
coi trung thu là dịp kiếm tiền, người lớn cũng đầu tư cho con trẻ mua đầu, sắm
trống hành nghề. Các đội tranh nhau đi múa từ đêm 14 sang đến đêm rằm. Có đội
tranh giành đất múa, đánh nhau sứt đầu mẻ trán. Rõ là người lớn làm hư trẻ con,
có trò chơi dân gian vui thế, đẹp thế mà cũng biến thành trò kinh doanh. Chẳng
bao giờ bọn kinh doanh sư tử vào đến nhà lão, phần xa đường thôn, phần lão có
tiền đâu mà uý lạo chúng.
Tuần trước có hai người đàn ông đi xe máy tìm vào nhà
lão Chù. Sự lạ ấy làm hàng xóm tranh nhau chỉ đường. Hai người đàn ông tự xưng
là cán bộ thanh tra tỉnh. Lão Chù hí hửng, lần này chắc được nhận trợ cấp
rồi.Họ mở ặp da, chìa ra những giấy tờ dài dặc tên người, hỏi: “ Ông là Lương
Văn Chù?” “Vâng ạ!” “Ông nhận một triệu hai trăm nghìn đồng trợ cấp khó khăn
này vào thời điểm nào?”. Lão ngớ ra. “ Em có nhận đồng nào đâu ạ!”. “ Có phải
chữ ký của ông đây không?”. Lão cố đánh vần tên mình rồi lắc đầu. “ Không phải
em kí ạ. Với lại em có dám xin nhiều thế đâu. Mỗi tháng em nhận một yến thóc
thôi mà”. Hai cán bộ thanh tra ra về, cất cả nỗi bàng hoàng, thấp thoảng của
lão vào trong chiếc cặp da đen. Sao được nhiều tiền thế mà mình không biết?
Những triệu hai, ai đã kí nhầm vào tên lão chứ? Lão ngồi lặng đi, thầm tính
toán sẽ làm gì với một triệu hai trăm nghìn kia. Ờ, lão sẽ mua một con lợn
giống, vài con gà thả cho chúng nhặt cơm rơi, cơm vãi. Quan trọng hơn là lão sẽ
có tiền mua gạo, cái bụng lão không còn réo èo èo từ khi trời chưa tối.
Giọt gianh vẫn tí tách nhưng mưa thì đã tạnh hẳn, cảnh
vật sáng dần. Lão Chù ngồi dậy, lắng nghe tiếng trống vang vang khắp làng. Ba
bốn loại trống ganh đua lên tiếng. Cái thì tung tung, cái thì bùng bục, cái kêu
ùng ùng như trống lệnh. Âm thanh rộn rã lúc gần lúc xa bao giờ cũng làm lão nhớ
về thời trẻ thơ cầm chiếc cần câu có con cá mo nang, chạy theo tiếng trống sư
tử.
Tiếng trống đột ngột rộn lên ngoài ngõ, hình như lẫn
cả tiếng thanh la và tiếng lửa đuốc kêu vù vù. Tất cả như cùng cuốn ào vào sân
nhà lão. Dùi gỗ dập lách cách vào tang trống. Cái đầu sư tử xanh đỏ loè loẹt
gục gặc trước chõng chào lão Chù. Lão dụi mắt, cố nghĩ rằng mình mơ ngủ. Thế
rồi rộ lên. “Tùng tùng! Cắc tùng tùng! Cheng! Cheng! Cheng! Cheng!”. Sư tử uốn
mình chồm lên vờn tận mặt lão, cây gậy tre hai đầu buộc giẻ tẩm dầu hoả cháy
sáng rực, xoay tròn theo nhịp múa rộn ràng. Con đàn bà chửa chít khăn đen mỏ
quạ ưỡn ẹo phảy chiếc quạt cọ rách vào vai lão Chù. Thằng “Ngô” nhăn nhở cười,
tay cũng cầm chiếc cần câu treo con cá bạc lấp lánh. Tiếng bọn trẻ nhao nhao,
chí choé, tiếng cười muốn vỡ khoảng sân hẹp. Chúng ùa vào đứng quanh cái chõng
tre, lão Chù chống cánh tay còn lại ngả người ra sau, há miệng cười khầng khậc.
Thích quá! Chưa bao giờ lão vui như thế này. Kéo con đàn bà chửa lại gần, lão
dòm tận mặt nó, chỉ thấy cái mặt trẻ ranh bôi đen đỏ ngoang nguếch. “Mày là con
nhà nào?” Nó chỉ nhe răng cười. Hai thằng đứng gần đó tranh nhau nói: “Thằng
Câm con bà Chắc đấy ông ạ!” “Thế đứa nào múa đầu sư tử?” Chúng đáp lại như quát
vào tai lão. “Thằng Thi! Thằng Thi hay trộm ổi của ông í”. “Nó múa đẹp đấy!”
Thằng cu lớn tay xách can dầu hoả bĩu môi: “ Ăn thua gì! Thằng Hưng con bác Hải
râu múa ác chiến hơn nhiều. Tại mẹ nó không cho đi…”. “Sao lại cấm nó múa?”
“Ông không biết à? Bố nố bị công an bắt rồi”. Lão Chù lại ngẩn ra. Lạ nhỉ! Ông
Hải tợn thế mà bị bắt á? Mai hỏi người lớn xem chứ trẻ mỏ biết gì mà tin. Nhưng
nếu ông Hải bị bắt thật thì ai giải quyết chế độ trợ cấp cho mình đây? Lại còn
triệu hai nào đấy mình đã được nhận đâu? Mải nghĩ, lão Chù không để ý tiếng
trống, ánh lửa và lũ trẻ đã ở ngoài đường. Khoảng sân vắng lặng trở lại. Ngồi
xuống chõng, tay lão đụng phải mấy quả hồng mềm nhũn. Lại đứa nào bỏ quên rồi!
Lão lẩm bẩm rồi ngả lưng định nằm xuống, nhưng mặt chõng đầy những bánh dẻo,
chuối, bưởi, hồng, có cả mấy tờ bạc lẻ nhăn nheo. Thì ra lũ trẻ bảo nhau chia
quà trung thu cho lão. Hai giọt nước mắt lăn chậm trên gò má hóp, một giọt rơi
phải mỏm tay cụt, mặn xót. Lão bệu bạo: “Các cháu ơi! Ai lại cho quà trung thu
người lớn bao giờ??!!”.
Trăng đã lên cao, sáng rực rỡ. Lạ thế! Mới mưa đấy mà
trăng lại sáng ngay được.
P.P.Q
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)