Hiển thị các bài đăng có nhãn Phê Bình-Lý luận. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phê Bình-Lý luận. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2013

CẢNH TRÀ VIẾT VỀ THƠ BÀNG SỸ NGUYÊN

Thấy trong tập bản thảo MẤY QUẢ KHẾ CHUA của nhà thơ Cảnh Trà có bài cảm nhận về thơ Bàng Sĩ Nguyên. Mình thích quá mang về đây. Người viết cảm nhận như Cảnh Trà thật khéo và tinh, mong ở Tây Ninh, có được vài cây bút như anh.
xin trân trọng giới thiệu:


 

Bàng sỹ Nguyên

 

                       Vợ chồng đi chợ xuân

 

Núi rừng xa mờ xanh với xanh

Đường non như lưng rồng uốn khúc

Vợ ngồi lưng ngựa vợ đi trước

Chồng nắm đuôi ngựa chân theo nhanh

 

 

Vợ chồng xuống núi đi chợ xuân

Sương sớm còn che như lấp lối

Vó ngựa cuốn nhanh chồng ríu chân

Vợ thương dìm cương dừng ngựa lại

 

Một dãy rừng mai mờ ướt sương

Đường xuân đưa vợ chồng xuống nùi

Váy vợ phồng căng đầy gió đồng

Đuổi theo vó ngựa mỏi chân chồng

Vào chợ đổi hàng mua vải muối

 

Mắt đưa nhìn quanh thấy rượu nồng

Chồng ghé vào hàng say mấy chén

Vợ bán mua xong dắt ngựa đến

Thấy chồng dím mắt cười nắng xuân

 

Ngả nón tu lờ đưa chồng gối

Xòe quạt bên chồng vợ phe phẩy

Chen chân trong chợ người đi lại

Rực rỡ đường thêu, vòng bạc rung

 

Gió mát nằm lâu chưa hết say

Nâng chồng lên ngựa hàng chất đầy

Vợ đi thong thả theo sau ngựa

Về núi tay cương chồng lỏng tay …

 

 

 

 

 

 

 

Trong sự thẩm định cái đẹp, cái hay của phong cảnh, hoa trái, văn chương … mỗi người đều có một sở thích riêng, không ai giống ai tuyệt đối. Có người chỉ thấy đẹp ở những cây đã được tạo dáng,  uốn vặn hình các loại chim, loài thú. Lại có phái chỉ thích dáng cây ra sao cứ để vậy. Có những chàng trai ưa phụ nữ uốn các kiểu tóc kỳ dị lông nhím, đuôi công … Có chàng thích tóc con gái dài tự nhiên, bông xỏa…

Tôi thuộc loại thứ hai, vì thế từ lâu đã rất nặng lòng với bài thơ Vợ chồng đi chợ xuân của nhà thơ Bàng Sĩ Nguyên, bởi lời lẽ  chất phác, giản dị và mộc mạc đúng tính cách của cảnh và người vùng cao Tây Bắc.

Nhà thơ Bàng Sĩ Nguyên, họ và tên là Bàng Khởi Phụng, sinh năm 1925 ở Bình Lục, Hà Nam trong một gia đình trí thức. Ông đã từng đi bộ đội thời kháng chiến chống Pháp làm báo trong quân đội. Năm 1954 hòa bình lập lại ông học tiếp đại học, ra trường làm ở báo Văn Nghệ, nhà xuất bản Văn học, đã in 7 tập thơ, 1 trường ca, 5 tập truyện và 1 vở kịch.

Tây Bắc núi nhiều, trập trùng, giăng mắc. Dưới chân núi là chổ sinh sống của người Thái, lưng chừng núi là người Dao, cao, cheo leo, hiểm trở nhất là người Mèo (Mông). Chợ vùng cao thường họp ở đồng bằng. Bởi vậy để trao đổi hàng hóa, giao lưu tình cảm … bà con các dân tộc thường đến chợ.

Đây là bài thơ tả cảnh vợ chồng người Mèo xuống núi đi chợ xuân

Một dãy rừng mai mờ ướt sương

Đường xuân đưa vợ chồng xuống núi

Tả cảnh chỗ ở của người Mèo, tác giả chỉ dùng hai câu

Núi rừng xa mờ xanh với xanh

Đường non như lưng rồng uốn khúc

Chưa ai thấy, chưa ai  biết rồng là con vật như thế nào nhưng nhìn con đường từ rên cao đổ xuống như lưng rồng uốn khúc cũng cảm thấy lạ lẫm, hoang sơ và thú vị.

Tiếp đến là những câu thơ nói lên sự bình đẳng giới giữa Nam và Nữ, giữa người vợ và người chồng, tự nhiên, hồn hậu lạ thường. Ngồi trên lưng ngựa để đi chợ xuân không phải là người con trai, không phải là người chồng mà là Vợ ngồi lưng ngựa, vợ đi trước. Còn người chồng thì Chồng nắm đuôi ngưa, chân theo nhanh

Sương ở đâu cũng vậy, xốp nhẹ, nhưng ở vùng cao sương dày đặc đến nổi

Sương sớm còn che như lấp lối

Vó ngựa cuốn nhanh chồng ríu chân

Vợ thương dìm cương dừng ngựa lại

Xuống núi, đi chợ xuân là một nét văn hóa bản địa của người Mèo. Ở đây ta chỉ mới thấy hưởng cảnh xuân lúc này của người vợ

Váy vợ phồng căng đầy gió đồng

Đưổi theo vó ngựa mỏi chân chồng

Người chồng hưởng xuân theo cách khác

Mắt đưa nhìn quanh thấy rượu nồng

Chồng ghé vào hàng say mấy chén

Ở trên, ta được chứng kiến cảnh người vợ ngồi trên lưng ngựa, đi trước, người chồng nắm đuôi ngựa, chạy lẽo đẽo theo sau, không trách móc, không tranh giành. Ở phần sau, khi người vợ mua bán xong xuôi

Vợ bán mua xong dắt ngựa đến

Thấy chồng dím mắt cười nắng xuân

Ai cười với nắng xuân đây? Hình như cả hai! Chồng say, vừa ngủ, vừa như cười, vợ thấy trong lòng vui quá vì chồng say rất đẹp, thấy người đi chợ đông vui, đường thêu rực rỡ, vàng bạc rung kêu, kê nón để chồng gối, xòe quạt mát để chồng ngủ. Những câu thơ hay như cho ta cùng uống chén rượu xuân vậy. Đúng là  Câu thơ hay, bài thơ hay làm cho người đọc không còn thấy câu chữ, chỉ còn cảm thấy tình người.

Và bài thơ kết cũng thật đậm đà bản chất vùng cao

 

 

 

Gió mát nằm lâu chưa hết say

Nâng chồng lên ngựa hàng chất đầy

Vợ đi thong thả theo sau ngựa

Về núi tay cương chồng lỏng tay …

Tay cầm cương mà say quá không nắm được, ngựa thì đi nước kiệu còn vợ thì bước thong thả. Tất cả hiện lên vẻ tự tin, khoan thai và yên ổn đến kỳ lạ.

 

 

 
Nhà thơ Họa sĩ BSN tại nhà riêng


 

 

 

và ở Tây Ninh

 

 

 

 

 

 

 

Thứ Ba, 6 tháng 9, 2011

NHÀ VĂN NGUYỄN THAM THIỆN KẾ VỚI TÌNH YÊU CUỘC SỐNG

Nguyễn Tham Thiện Kế mới ra mặt bạn đọc cuốn sách mới. Khác với những mảng văn như phù phép ở các tập Tiểu thuyết và truyện ngắn. Cuốn tùy bút của anh lại ngồn ngộn tư liệu và ngôn từ cuộc sống muôn màu muôn vẻ. NGƯỜI TRUNG DU dẫn đăng bài giới thiệu của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều về cuốn sách này.

Không phải một cuốn sách mà là một đời sống

(Đọc “Dặm ngàn hương cốm Mẹ” của Nguyễn Tham Thiện Kế)

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - 06-09-2011 02:30:28 PM
VanVN.Net - Cuốn sách không còn là một cuốn sách nữa. Nó là một đời sống. Sau khi đọc đến dòng cuối cùng của cuốn sách tôi đã nhận ra như vậy. Từng dòng, từng dòng chữ đã dần dần đưa tôi rời xa cái đời sống gấp gáp, thực dụng, qua loa và nhiều vô cảm để bước vào một đời sống của những vẻ đẹp tinh khiết và ngập tràn tinh thần nghi lễ. Đó không phải là một đời sống xa lạ, một đời sống của trí tưởng tượng mà là một đời sống chính tôi đã từng được sống trong nó và giờ đây được sống lại với toàn bộ tinh thần chứa đựng trong nó. Nhưng bây giờ, tinh thần của đời sống ấy đã và đang rời bỏ chúng ta. Và với những trang viết của mình, Nguyễn Tham Thiện Kế thực sự đã phục dựng tinh thần của đời sống ấy, đã làm nó sống lại trong tôi như trong một giấc mơ tôi được trở về một vùng đất với bao điều đẹp đẽ đã biến mất trên thế gian này. Và hơn cả một giấc mơ  là một hiện thực.



Hầu như tất cả những gì Nguyễn Tham Thiện Kế viết vẫn còn đây. Vẫn còn đây những hoa lý, những đồi cọ, nương sắn, còn đây những cốm, những bánh khúc, còn đây những đào, những loa kèn, những cá Anh vũ, còn đây những ngôi nhà cổ, còn đây những Nội, Ngoại, những U Già, những bà giáo Chi, còn đây những Mẹ, những Dì và còn đây bao con người vô danh. Thế nhưng hiện thực của cái đời sống gấp gáp, thực dụng, qua loa và nhiều vô cảm đã đang làm cho lý không đa tình mơ hồ trong nắng hạ như xưa, cọ không còn xanh mộng du trên những vùng đồi trung du như xưa, cốm đã mờ đi ánh sáng xanh trong một ngày thu, đào bớt thắm trong nắng xuân rạo rực, những Anh vũ không còn ngời ngời trong nước biếc, rau khúc không còn dâng hương bất tận dọc chân trời, những ngôi nhà xưa không còn vọng tiếng ai da diết gọi về, những Nội, Ngoại, những U Già, những bà giáo Chi loãng đi trong hồn người hơi thở đầm ấm như lửa bếp chiều đông,  thưa dần những bà mẹ đi trong hoàng hôn, vừa đi vừa tỏa hương thơm của ngũ cốc và bao con người vô danh nhưng bóng không còn mãi in trên bức tường ký ức của con người như thuở trước. Tất cả là bởi con người đã đổi thay. Và khi con người đổi thay  giọng nói của mình, đổi thay cách nhìn của mình và đổi thay cảm xúc của mình thì mọi điều bỗng thay đổi.
Có thể có những người đọc cuốn sách này không tìm thấy những gì tôi tìm thấy. Tôi là người hoài cổ chăng? Hay có phải tôi là người quá nuối tiếc những gì như thế? Có phải những gì trong thế giới của Nguyễn Tham Thiện Kế không còn ý nghĩa trong cuộc sống bây giờ nữa? Hay có phải cái thế giới ấy chỉ là một giấc mơ cho những kẻ lãng mạn không hợp thời như Nguyễn Tham Thiện Kế, như tôi và như bao người khác nữa?  Những câu hỏi như vậy đang vang lên trong tôi từ khi tôi bắt đầu nhìn thấy sự ra đi của những vẻ đẹp kia. Và những câu hỏi đó vang lên nhiều hơn, gấp gáp hơn và buồn bã hơn khi đọc cuốn sách của Nguyễn Tham Thiện Kế. Cho đến lúc này, chính cái thời khắc mà những chữ tôi viết đang hiện dần lên, thì tôi nhận thấy: tôi không phải là kẻ hoài cổ, không phải là kẻ quá nuối tiếc, không phải là một kẻ lãng mạn không hợp thời mà là tôi hiểu rằng: những điều Nguyễn Tham Thiện Kế viết là những điều trong những điều làm nên cuộc sống có ý nghĩa và lộng lẫy của xứ sở này.

Nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế
Nhưng có lẽ cách nói “những điều Nguyễn Tham Thiện Kế viết…”  đã không phù hợp khi nói về những câu chuyện của anh. Tôi sẽ cảm thấy mệt mỏi và có nguy cơ rơi vào một thứ lý lẽ vô bổ khi viết với một mớ thuật ngữ để phân tích hay luận giải. Bởi tôi đang trở về sống trong cái đời sống của những câu chuyện trong cuốn sách. Tôi đang được sống trong đời sống mà tác giả cuốn sách đã hồi sinh nó. Đấy thực sự là nhu cầu lớn nhất của một người đọc. Tôi suy ngẫm và thấy rằng: đầu tiên Nguyễn Tham Thiện Kế muốn viết những tùy bút hay bút ký gì đó (tôi thực sự thấy chẳng cần thiết phải xác định thể loại ở đây). Anh chuẩn bị các thao tác của một nhà văn. Nhưng khi ngồi xuống viết, cái hành động viết của anh đương nhiên là được thực hiện nhưng chỉ là một thói quen cơ học từ chữ đầu tiên cho đến chữ cuối cùng. Lúc đó, câu chuyện anh muốn kể và thậm chí muốn “làm văn” đã cuốn anh đi và làm anh quên mất những thao tác kỹ thuật. Lúc đó, cuộc sống trong những câu chuyện kia đã phủ ngập anh. Nó giống như cỗ máy thời gian đưa anh trở lại những phần sống trước đó. Nó làm cho anh không còn bất cứ ký ức nào về cuộc sống hiện tại anh đang sống với xe hơi, với những quán ăn phong cách ẩm thực Châu Âu ngập tràn các đô thị, với những siêu sản phẩm của nền công nghệ hậu hiện đại… Anh như chưa từng được sống cái đời sống hiện tại mà anh đang sống hoặc là nó chưa từng đến với anh. Và thế, anh trở thành một phần không thể tách rời của đời sống những năm tháng ấy – những năm tháng mà con người sống trong một đời sống của run rẩy, của lãng mạn, của linh thiêng, của những giấc mơ huyền diệu… Đó là thời đại mà người ta thi vị và thiêng liêng hóa cả một món ăn, một cánh hoa, một cái cây, một hoàng hôn, một tiếng rao đêm, một ngọn đồi, một ngõ phố, một gương mặt người vô danh… Đấy chính là một cuộc sống với sự sâu thẳm của tâm hồn. Đấy là một đời sống mà con người được sống một cách có ý nghĩa nhất và trong sáng nhất.
Chính vì anh đang sống với toàn bộ tinh thần và thể xác trong đời sống ấy mà không có bất cứ sự can thiệp thô bạo và thực dụng nào của cái đời sống đương đại lọt vào. Và cũng chính vì lẽ đó mà tất cả những gì nhỏ bé nhất, giản dị nhất và cả mơ hồ nhất cũng hiện nên tươi ròng và xác thực như máu của chính tôi khi tôi rạch một vết dao vào da thịt mình và nó tứa ra. Nó chính là đời sống chứ không phải những hoài niệm về đời sống ấy. Chi tiết trong những câu chuyện quả là làm tôi như ngạt thở. Những chi tiết như thế đã xóa sạch dấu vết của phép tu từ học. Tôi là người cũng thường viết về những gì như Nguyễn Tham Thiện Kế viết. Nhưng tôi phải thú tực rằng: khi đọc những trang sách hay nói cách khác là khi bước vào cái đời sống mà Nguyễn Tham Thiện Kế đã hồi sinh nó bằng những trang viết của anh tôi mới nhận ra mình vẫn còn là kẻ nhiều hoài niệm về đời sống đó và vẫn còn dùng kỹ xảo của nghề viết. Chắc chắn sự khởi sinh những câu chuyện trong cuốn sách của  Nguyễn Tham Thiện Kế  là từ những hoài niệm. Và việc đặt tên cho mỗi câu chuyện cũng như những dòng đầu tiên đều được anh thực thi bởi phép tu từ học. Nhưng rồi tinh thần và vẻ đẹp của đời sống đó mang một quyền lực quá lớn đến mức nó biến những hoài niệm của anh về đời sống đó thành một đời sống hiện tại chứ không phải một quá khứ được ký ức hóa.

              Hà Đông, mồng 1 tháng Tám, Tân Mão